Trang chủ | Tổng quan | Mẫu gỗ | Vườn quốc gia | English

Từ điển Latin-Việt

TỰ NHIÊN BÍ ẨN

THÔNG TIN MỚI

TRA CỨU ĐỘNG VẬT RỪNG VIỆT NAM

(Hơn 2350 loài thuộc các họ, bộ, nhóm khác nhau)
Cập nhật 20/11/2023

 

 

Tên Việt Nam: Chàng ba na
Tên Latin: Rana banaorum
Họ: Ếch nhái Ranidae
Bộ: Không đuôi Anura 
Lớp (nhóm): Lưỡng cư  
       
 Hình: Phùng Nguyễn Trí Lâm  
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
    ẾCH XANH BANA

CHÀNG XANH BANA

Rana banaorum Bain, Lathrop, Murphy and Ho, 2003

Odorrana banaorum Bain, Lathrop, Murphy and Ho, 2003

Họ: Ếch nhái Ranidae

Bộ: Không đuôi Anura

Đặc điểm nhận dạng:

Loài lưỡng cư có thân hóp mặt lưng. Chiều dài từ mút mõm đến lỗ huyệt 42 - 55 mm ở con đực và 83 - 99 mm ở con cái. Răng lá mía xếp thành những xàng xiên đến khoang mũi hầu. Có sọc môi trắng chạy qua môi trên, kết thúc ở tuyến trên chỗ mọc chân trước. Đầu lớn, tròn vát ở chính diện. Màng nhĩ tròn, rõ, rất lớn. Nếp trên màng nhĩ yếu. Da lưng màu xanh lục, trở thành tuyến ở mặt bên, nổi hột ở mặt bên thân, có nếp lưng bên mờ. Lưng thường màu nâu có đốm đen và vàng, thỉnh thoảng xanh lục có đốm đen. Chân trước và sau màu nâu, vằn sáng. Chân trước: Công thức ngón II <I <IV <III. Đệm chai ở giữa dưới ngón thứ hai và ba đến củ bàn chân. Công thức đệm bàn chân II <I <IV <III. Các ngón chân có đĩa nở rộng. Chân sau: Công thức ngón I <II <III <V <IV. Có màng bơi đủ đến đĩa, ngoại trừ mặt giữa của ngón thứ IV, nơi mà nó chạm đĩa như một riềm, những riềm bên ngón I và V đến đốt cuối, màng bơi màu nâu. Củ dưới khớp và củ bàn chân trong rõ, hình nón. Các đốt cuối hình chữ T. Công thức đệm bàn chân I = II = III> IV> V. Mũi ức lớn, lõm chữ V phía sau. Con đực có đệm bàn chân, cặp túi kêu, không có gai ngực. Con cái đẻ ra trứng màu trắng.

Loài này khác các loài cùng giống khác ở các đặc điểm sau:

Rana banaorum khá giống loài Rana morafkai và đặc biệt là loài Rana chloronota nhưng nó khác hai loài kia bởi có nếp lưng bên. Riêng với Rana morafkai, nó còn khác bởi kích thước con đực lớn hơn (42 - 55 mm so sới 39 - 45 mm). Một vài cái thể đực loài Rana banaorum có gai nhỏ không rõ ở mặt lưng của chân sau trải rộng đến bàn chân, hình thành dạng răng cưa dọc mép ngón chân sau thứ V, trong khi loài Rana chloronota không có hoặc mức độ nhẹ.

Mõm tròn rộng của Rana banaorum khiến nó khác với mõm vát nhọn của các loài Rana andersonii , Rana chalconota , Rana schmackeri. Cũng khác mõm hóp của hai loài Rana graminea Rana margaretae

Một sọc môi màu trắng đã khiến Rana banaorum khác các loài Rana andersonii , Rana bacboensis , Rana grahami , Rana hainanensis , Rana hmongorum , Rana jingdongensis , Rana junlianensis , Rana margaretae , Rana sinica , Rana schmackeri và Rana tiannensis - Rana banaorum khác với của các loài Rana andersonii , Rana chalconota , Rana grahami , Rana hainanensis , Rana hmongorum , Rana hosii , Rana jingdongensis , Rana junlianensis , Rana kwangwuensisRana margaretae bởi túi kêu.

Nếp lưng bên của Rana banaorum giúp nó được phân biệt với các loài Rana andersonii , Rana bacboensis , Rana chloronota , Rana hainanensis , Rana hejiangensis , Rana jingdongensis , Rana junlianensis , Rana kwangwuensis , Rana morafkai , Rana livida , Rana schmackeri , Rana sinica Rana tiannensis

Nếp lưng bên của loài Rana banaorum là tổ hợp của những hột trắng rõ và mụn lưng bên thỉnh thoảng hình thành nếp ở loài Rana grahami Rana hmongorum. Từ những đặc điểm này giúp ta phân biệt với loài Rana banaorum

Loài Rana banaorum không có một củ bàn chân ngoài nên nó khác với các loài Rana archotaphus Rana chalconota

Loài Rana banaorum đẻ ra trứng màu trắng, còn loài Rana bacboensis đẻ ra trứng màu đen, các loài Huia nasica , Rana andersonii , Rana chalconota , Rana grahami , Rana junlianensis , Rana margaretaeRana schmackeri đều đẻ ra trứng màu trắng có lỗ sắc tố thâm màu nên chúng khác nhau. - Sự không có gai ở bụng khiến Rana banaorum khác các loài Rana andersonii, Rana grahami , Rana jingdongensis , Rana junlianensis , Rana margaretae , và Rana schmackeri.

Khác loài Rana sinica bởi màng nhĩ rõ, không bị che khuất (so với màng nhĩ mờ, được phủ bởi da ở loài Rana sinica), đĩa ngón lớn (so với nhỏ ở loài Rana sinica) và công thức ngón chân trước I <II <IV của Rana sinica so với II <I <IV của loài Rana banaorum, riềm đốt cuối hình chữ T (so với tròn ở loài Rana sinica)

Khác loài Rana leporipes bởi Rana banaorum có nếp trên màng nhĩ không màu (so với nếp màu trắng ởi loài Rana leporipes), màng bơi đến đĩa ngón (so với màng bơi đến đốt cuối ở loài Rana leporipes) và đốt cuối hình chữ T (so với hình trứng ở Rana leporipes).

Sinh học, sinh thái:

Sống ven bờ suối hoặc bờ thác trong rừng nguyên sinh hỗn giao với thứ sinh ở độ cao 900 m trở lên. Từ tháng năm đến tháng sáu, con đực phát ra tiếng trong mùa sinh sản. Loài mới phát hiện và công bố năm 2003 sau nhiều năm nhầm lẫn với loài Rana andersonii.

Phân bố:

Trong nước: Hầu khắp các tỉnh Tây Nguyên, Việt Nam.

Nước ngoài: Lào, Thái Lan.

 

Mô tả loài: Nguyễn Quảng Trường, Phạm Thế Cường, Phùng Mỹ Trung - WebAdmin.

 

 

 

Bản đồ phân bố của loài:

 

Chàng ba na

 

 

 
 

 


Giới thiệu | Tra cứu | Danh pháp | Diễn đàn | Liên hệ | Văn Bản | Trợ giúp | SVR Mobile

Mọi chi tiết xin liên hệ Admin website Sinh vật rừng Việt Nam
© Ghi rõ nguồn '
Sinh vật rừng Việt Nam' khi bạn phát hành lại thông tin từ Website này