ẾCH XANH BANA
CHÀNG XANH BANA
Rana banaorum Bain,
Lathrop, Murphy and Ho, 2003
Odorrana
banaorum Bain,
Lathrop, Murphy and Ho, 2003
Họ: Ếch nhái Ranidae
Bộ: Không đuôi Anura
Đặc điểm nhận
dạng:
Loài lưỡng cư có thân hóp mặt lưng.
Chiều dài từ mút mõm đến lỗ huyệt 42 - 55 mm ở con đực và 83 - 99 mm ở con cái.
Răng lá mía xếp thành những xàng xiên đến khoang mũi hầu. Có sọc môi trắng chạy
qua môi trên, kết thúc ở tuyến trên chỗ mọc chân trước. Đầu lớn, tròn vát ở
chính diện. Màng nhĩ tròn, rõ, rất lớn. Nếp trên màng nhĩ yếu. Da lưng màu xanh
lục, trở thành tuyến ở mặt bên, nổi hột ở mặt bên thân, có nếp lưng bên mờ. Lưng
thường màu nâu có đốm đen và vàng, thỉnh thoảng xanh lục có đốm đen. Chân trước
và sau màu nâu, vằn sáng. Chân trước: Công thức ngón II <I <IV <III. Đệm chai ở
giữa dưới ngón thứ hai và ba đến củ bàn chân. Công thức đệm bàn chân II <I <IV
<III. Các ngón chân có đĩa nở rộng. Chân sau: Công thức ngón I <II <III <V <IV.
Có màng bơi đủ đến đĩa, ngoại trừ mặt giữa của ngón thứ IV, nơi mà nó chạm đĩa
như một riềm, những riềm bên ngón I và V đến đốt cuối, màng bơi màu nâu. Củ dưới
khớp và củ bàn chân trong rõ, hình nón. Các đốt cuối hình chữ T. Công thức đệm
bàn chân I = II = III> IV> V. Mũi ức lớn, lõm chữ V phía sau. Con đực có đệm bàn
chân, cặp túi kêu, không có gai ngực. Con cái đẻ ra trứng màu trắng.
Loài này khác các loài cùng giống khác ở
các đặc điểm sau:
Rana banaorum khá giống loài Rana
morafkai và đặc biệt là loài Rana chloronota nhưng nó khác hai loài
kia bởi có nếp lưng bên. Riêng với Rana morafkai, nó còn khác bởi kích
thước con đực lớn hơn (42 - 55 mm so sới 39 - 45 mm). Một vài cái thể đực loài
Rana banaorum có gai nhỏ không rõ ở mặt lưng của chân sau trải rộng đến
bàn chân, hình thành dạng răng cưa dọc mép ngón chân sau thứ V, trong khi loài
Rana chloronota không có hoặc mức độ nhẹ.
Mõm tròn rộng của Rana banaorum
khiến nó khác với mõm vát nhọn của các loài Rana andersonii , Rana chalconota
, Rana schmackeri. Cũng khác mõm hóp của hai loài Rana graminea và
Rana margaretae
Một sọc môi màu trắng đã khiến Rana
banaorum khác các loài Rana andersonii , Rana bacboensis , Rana grahami ,
Rana hainanensis , Rana hmongorum , Rana jingdongensis , Rana junlianensis ,
Rana margaretae , Rana sinica , Rana schmackeri và Rana tiannensis - Rana
banaorum khác với của các loài Rana andersonii , Rana chalconota , Rana
grahami , Rana hainanensis , Rana hmongorum , Rana hosii , Rana jingdongensis ,
Rana junlianensis , Rana kwangwuensis và Rana margaretae bởi túi kêu.
Nếp lưng bên của Rana banaorum
giúp nó được phân biệt với các loài Rana andersonii , Rana bacboensis , Rana
chloronota , Rana hainanensis , Rana hejiangensis , Rana jingdongensis , Rana
junlianensis , Rana kwangwuensis , Rana morafkai , Rana livida , Rana schmackeri
, Rana sinica và Rana tiannensis
Nếp lưng bên của loài Rana
banaorum là tổ hợp của những hột trắng rõ và mụn lưng bên thỉnh thoảng hình
thành nếp ở loài Rana grahami và Rana hmongorum. Từ những đặc điểm
này giúp ta phân biệt với loài Rana banaorum
Loài Rana banaorum không có một
củ bàn chân ngoài nên nó khác với các loài Rana archotaphus và Rana
chalconota
Loài Rana banaorum đẻ ra trứng
màu trắng, còn loài Rana bacboensis đẻ ra trứng màu đen, các loài Huia
nasica , Rana andersonii , Rana chalconota , Rana grahami , Rana junlianensis ,
Rana margaretae và Rana schmackeri đều đẻ ra trứng màu trắng có lỗ
sắc tố thâm màu nên chúng khác nhau. - Sự không có gai ở bụng khiến Rana
banaorum khác các loài Rana andersonii, Rana grahami , Rana jingdongensis
, Rana junlianensis , Rana margaretae , và Rana schmackeri.
Khác loài Rana sinica bởi màng
nhĩ rõ, không bị che khuất (so với màng nhĩ mờ, được phủ bởi da ở loài Rana
sinica), đĩa ngón lớn (so với nhỏ ở loài Rana sinica) và công thức
ngón chân trước I <II <IV của Rana sinica so với II <I <IV của loài Rana
banaorum, riềm đốt cuối hình chữ T (so với tròn ở loài Rana sinica)
Khác loài Rana leporipes bởi
Rana banaorum có nếp trên màng nhĩ không màu (so với nếp màu trắng ởi loài
Rana leporipes), màng bơi đến đĩa ngón (so với màng bơi đến đốt cuối ở
loài Rana leporipes) và đốt cuối hình chữ T (so với hình trứng ở Rana
leporipes).
Sinh học, sinh thái:
Sống ven bờ suối hoặc bờ thác trong rừng
nguyên sinh hỗn giao với thứ sinh ở độ cao 900 m trở lên. Từ tháng năm đến tháng
sáu, con đực phát ra tiếng trong mùa sinh sản. Loài mới phát hiện và công bố năm
2003 sau nhiều năm nhầm lẫn với loài
Rana andersonii.
Phân bố:
Trong nước: Hầu khắp các tỉnh Tây Nguyên,
Việt Nam.
Nước ngoài: Lào, Thái Lan.
Mô tả
loài:
Nguyễn Quảng Trường, Phạm Thế Cường, Phùng Mỹ Trung
- WebAdmin.