THẰN LẰN NGÓN CÁT TIÊN
THẰN LẰN
CHÂN NGÓN
CÁT TIÊN
Cyrtodactylus cattienensis
Geissler et
al., 2009
Họ: Tắc kè
Gekkonidae
Bộ: Có vảy
Squama
Đặc điểm nhận dạng:
Chiều dài thân
tối đa 69mm, dài thân ngắn hơn dài đuôi. Đầu có một vạch đen ở gáy, kéo dài tới mép sau ổ mắt; thân, đuôi và
chân có những vạch nhỏ, không xếp theo trình tự: 4
- 6 vạch sáng màu trên thân và
4 - 12 vạch trắng trên đuôi; nốt sần trên lưng xếp thành 16
- 22 dọc thân; 28 -
42 hàng vảy bụng ở ngang giữa thân; nếp da gấp bên sườn không phát triển hoặc
biến mất, không có các nốt sần lớn; đuôi không dẹp, phần gốc đuôi không phình
to, vảy sắp xếp thành dạng vòng; con đực có 6
- 8 lỗ trước hậu môn xếp liền nhau
tạo thành góc tù; cả con đực và cái đều có một đám vẩy lớn nằm ở vùng trước hậu
môn và có 3 - 8 vảy lớn nằm ở phía dưới mỗi bên đùi; không có lỗ đùi, không có
rãnh trước hậu môn; vảy dưới đuôi nhỏ, không phình rộng theo chiều ngang.
Cyrtodactylus
cattienensis khác các loài cùng Giống Cyrtodactylus bởi những đặc điểm sau:
Khác với loài
Cyrtodactylus otai ở kích thước từ mút mõm đến lỗ huyệt dài hơn
(85.2 -
90.6 mm so với 43.5 - 69.0 mm) và sự thiếu vảy đùi nở rộng (so với 3 - 8 vảy ở
loài Cyrtodactylus cattienensis).
Khác với loài
Cyrtodactylus bobrovi bởi chiều dài thân (75.2 - 96.4 mm vs. 43.5 - 69.0
mm), không có vảy đùi (so với 3 - 8 vảy), có nhiều màng dưới ngón IV của chân
trước hơn (19 - 21 so với 12 - 16) và dưới ngón IV của chân sau (21 - 22 so với
14 - 19)
Khác với loài
Cyrtodactylus puhuensis bởi có một hàng vảy dưới đuôi nở rộng và vảy đùi trước huyệt nối tiếp.
Loài này khá giống loài Cyrtodactylus
orlovi nhưng khác nhau bởi kích thước con cái lớn hơn (71.9 - 77.7 mm so với 47.7 -
67.1 mm ở Cyrtodactylus cattienensis), một vảy đơn gian mũi (so với1 - 4 vảy ở
Cyrtodactylus cattienensis), nhiều vảy dọc thân từ vảy cằm đến mép
trước huyệt
hơn (165 - 172 so với 151 - 156 ở Cyrtodactylus cattienensis), không có vảy lõm
trước huyệt ở con cái (so với 0 - 8 vảy ở
Cyrtodactylus cattienensis),nhiều nốt
sần có gờ hơn ở gốc đuôi (trên 2/3 phần trước so với 1/3 phần trước ở
Cyrtodactylus cattienensis).
Khác với loài Cyrtodactylus arndti bởi kích thước lớn hơn (73.4 - 80.9 mm so với
43.5 - 69.0 mm ở Cyrtodactylus cattienensis), có lỗ đùi trước huyệt lõm xuống trước huyệt ở
con cái (so với không có ở Cyrtodactylus cattienensis), có vảy dưới đuôi nở rộng ngang so
với không có ở Cyrtodactylus cattienensis.
Khác với loài Cyrtodactylus sangi bởi kích thước nhỏ hơn (dài thân 56.3 so
với 64.8 mm Cyrtodactylus cattienensis),vằn đuôi sẫm không đều (so với đều) mà độ rộng của vằn ngắn (so với
gần bằng) khoanh xen kẽ giữa các vằn, vạch gáy không đều (so với đều) gián đoạn
ở giữa và nhiều vằn lưng hơn - Khác với loài
Cyrtodactylus cryptus bởi kích thước nhỏ hơn (dài thân
56.3 so với 90.8 mm), vảy bụng ít hơn (37 so với 47
- 50), ít lỗ trước huyệt hơn
(7 so với 9 - 11), ít màng da dưới ngón thứ tư chân sau hơn (18 so với 20
- 23) và
dưới ngón thứ tư chân trước (16 so với 18
- 19), vạch gáy không đều (so với đều)
gián đoạn ở giữa (so với không gián đoạn) không có (so với có) viền vàng. vằn
đuôi sẫm không đều (so với đều) mà độ rộng của vằn ngắn (so với dài hơn) khoanh
xen kẽ giữa các vằn.
Sinh học, sinh thái:
Loài
bò sát ăn đêm này thường sống trong các gốc cây lớn hay thảm mục thực vật
trên nền rừng. Thỉnh thoảng bắt gặp chúng sống ở các tảng đá cô đơn trong rừng.
Thức ăn là các loài
côn trùng nhỏ và thường đẻ từ 2 - 4 trứng, trứng được lấp trong các hốc cây,
gốc cây. Thời gian mang trứng vào đầu mùa mưa (ghi nhận ở Mã Đà
- Đồng Nai và
núi Dinh - Bà Rịa - Vũng Tàu).
Phân bố:
Trong nước:
Loài đặc hữu, mới phát hiện và công bố năm 2009 ở
Vườn quốc gia Cát
Tiên
Đồng Nai và còn phân bố ở Núi Dinh, Bà Rịa - Vũng Tàu.
Nước ngoài: Không có.
Mô tả loài: Phùng Mỹ Trung, Nguyễn
Quảng Trường, Phạm Thế Cường - WebAdmin.