CÂY SE
CÂY SE
Symphytum officinale
L., 1753
Họ: Vòi voi Boraginaceae
Bộ: Vòi voi Boraginales
Đặc điểm nhận dạng:
Cây thân thảo sống lâu năm, mọc đứng, cao 50 -
100cm, có lông lởm chởm. Lá mọc so le, hình trái xoan ngọn giáo, lượn sóng ở mép
và thon hẹp thành cuống ở gốc. Hoa trắng, hồng hay tím, xếp thành chùm hình bò
cạp nhiều hoa; đài 5 thùy; tràng hình chuông, có 5 thùy ngắn cong ra phía ngoài
thành 5 phần phụ ở họng; 5 nhị thụt có bao phấn nhọn dài hơn chỉ nhị; bầu gồm 4
lá noãn. Quả bế tư có hạch nhẵn và bóng.
Sinh học, sinh thái:
Cây ưa đất mát, cò bóng che, gần nơi có nước.
Nhân giống bằng tách bụi hay trồng bằng hạt trong vườn ươm; trồng trên đất sét -
cát được che bóng. Ra hoa tháng 4 - 6.
Phân bố:
Loài thực vật thuộc họ vòi voi Boraginaceae này
phân bố ở châu Âu; có nhập trồng ở vùng cao nước ta (Đà Lạt).
Công dụng:
Lá nấu chín ăn được. Người ta dùng cây sắc uống trong chữa:
thổ huyết (ho ra máu), đái ra máu, băng huyết, viêm ruột, ỉa chảy, lỵ, trướng
khí ruột kết, loét đường tiêu hóa, ung thư dạ dày. Dùng ngoài trị các vết thương
mất trương lực, bỏng loét ở đùi, nứt nẻ da, nứt hậu môn, gãy và thương tổn
xương. Lá có thể hơ nóng dùng đắp trị đau đầu và cuốn như thuốc lá để hút trị
bệnh phổi.
Dùng uống trong, lấy 100 - 150g rễ cây cho vào một ít nước
đun cho sôi và ngâm một đêm. Uống nước chiết này ngày 2 lần sau hai bữa ăn trưa,
tối. Để dùng ngoài có thể lấy rễ cây tươi giã đắp hoặc dùng nước nấu rễ cây khô
để rửa hoặc dùng bông thấm thuốc để đắp.
Tài liệu dẫn:
Cây cỏ có ích ở Việt Nam - Võ văn Chi - Trần Hợp -
trang 642.