TÔM HÙM ĐÁ
TÔM HÙM ĐÁ
Panulirus homarus
(Linnaeus, 1758)
Cancer
homarus
Linnaeus, 1758
Astacus
homarus
Fabricius, 1775
Palinurus homarus
p.p. Fabricius, 1798.
Họ: Tôm hùm gai Palinuridae
Bộ: Mười chân Decapoda
Đặc điểm nhận
dạng:
Tôm cỡ lớn, cơ
thể (không kể râu) dài tới 30 cm (1.4 - 1.5kg/con), trung bình 20 - 25cm (0.7 -
0.8kg/con), con cái tham gia đẻ trứng lần đầu có kích thước 17cm; vỏ nhám màu
xanh lá cây hơi xám hay nâu đỏ, các gai trên vỏ đầu ngực màu nâu đỏ hoặc màu
trắng, trên vỏ lưng các đốt bụng có những chấm nhỏ li ti màu vàng hay trắng và
tạo thành đường viền ở gờ sau mỗi đốt bụng. Chân hàm III không có nhánh ngoài;
phiến gốc râu I có 4 gai lớn bằng nhau xếp thành hình vuông; vỏ lưng các đốt
bụng II - IV có 1 rãnh ngang liên tục hay không liên tục và gờ trước của rãnh
chia thành nhiều thùy nhỏ.
Sinh học, sinh
thái:
Tôm hùm đá sống
phổ biến ở đáy cát pha bùn, ẩn trong các hốc đá vùng nước ven bờ, độ sâu từ 1 –
5m, có sóng đập. Loài này thường sống thành bầy khoảng 3 - 4 con và hoạt động
mạnh về ban đêm. Mùa sinh sản khoảng tháng 4 đến tháng 6, đỉnh cao là tháng 5.
Hàng năm từ tháng 12 đến tháng 6 năm sau, tôm con (chiều dài vỏ đầu ngực 8 -
20mm) thường tập trung ở các ghềnh đá ven bờ, ven các đảo.
Phân bố:
Trong nước:
Phân
bố khắp ven bờ biển Việt Nam từ Bắc Bộ đến vịnh Thái Lan, tập trung nhất ở các
tỉnh ven biển miền Trung.
Thế giới: Vùng Ấn Độ
- Tây Thái
Bình Dương từ vùng biển Nhật Bản, Inđônêxia, Ôxtrâylia, Đông Phi.
Giá trị:
Có giá trị khoa học,
có thể nhân giống nuôi thương phẩm.
Tình trạng:
Trước năm 1975,
tôm cỡ 0.7 - 0.8 kg/con rất phổ biến ở các vùng biển ven bờ và quanh các đảo.
Sau năm 1975, đặc biệt từ năm 1990 tới nay, do nhu cầu xuất khẩu mạnh, lượng
khai thác hàng năm tăng cao, làm số lượng giảm rõ rệt, có thể tới 50%. Ngoài ra,
do nghề nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, làm ô nhiễm các vùng nước ven bờ,
bên cạnh đó, việc dùng chất nổ để đánh bắt đã xâm hại và phá hủy, thu hẹp nơi cư
trú, có thể tới 20%. Trong vòng 10 năm trở lại đây, tôm hùm con còn bị khai thác
triệt để phục vụ cho nghề nuôi tôm hùm lồng hiện đang rất phát triển ở các tỉnh
miền Trung.
Phân hạng:
EN A1c,d B2b+3d.
Biện pháp bảo vệ:
Đã được đưa vào
Sách Đỏ Việt Nam từ năm 1992. Kiến nghị: giảm cường độ khai thác, cần nghiên cứu
để tìm hiểu ảnh hưởng của sự đánh bắt tôm hùm con để nuôi lồng lên nguồn lợi tôm
hùm ngoài tự nhiên, không khai thác vào mùa sinh sản, nghiêm cấm đánh bắt bằng
mìn và khai thác san hô.
Tài
liệu dẫn:
Sách đỏ
Việt Nam - phần động vật – trang - 55