Bướm
có kích thước trung bình, sải cánh 75 - 90mm. Bướm cái
và bướm đực khác nhau.Mặt
trên cánh bướm đực có mép cánh trước hơi lõm, ngọn cánh
trước
cắt thành hình chéo tạo thành đỉnh ngọn,
mép cánh
sau có hình gợn sóng. Bụng và thân ngắn, chắc, bay rất nhanh, khỏe. Nền
cánh có màu đen vùng gốc cánh có màu đem đậm. Một hàng đốm màu vàng không đồng,
dứt khúc nhất xếp dọc theo cánh trước, phần cánh sau các hàng đốm này dính liền
vối nhau. Ngọn cánh trước có một đốm nhỏ màu vàng nằm gần chót cánh. Mỗi bên gốc
cánh sau có một đốm đỏ màu cam. Mặt dưới ở phần cánh trước có một chấm tròn và
một hình bán nguyệt màu đó viền đen rất đặc trưng trên nền cánh màu nâu nhạt.
Bướm cái có kích thước lớn hơn bướm đực, toàn thân có màu nâu nhạt, các hoa văn
rất rõ và sâc sỡ hơn con đực, các đốm màu nâu đen hiện rất rõ.
Sinh học, sinh thái:
Loài này
thường sống trong các khu rừng thường xanh ít bị tác động bởi con người.
Chúng
thường đậu trên mặt đất để hút các chất dịch quả thối trong rừng hay chất thải
của động vật.Khi
bị động chúng rất nhanh và bay xa. Thức ăn của sâu non là một số cây Garcinia
sp.thuộc họ BứaClusiaceae.
Phân bố:
Vùng phân
bố từ Mianma, Trung Quốc đến Thái Lan, Lào. Ở Việt Nam có mặt hầu khắp các vùng
có rừng. Tên bướm được đặt tên theo dịch nghĩa tiếng Anh.
Mô tả loài: Tô
Văn Quang, Phùng
Mỹ Trung - WebAdmin.