New Page 1
CÁNH KIẾN ĐỎ
Kerria lacca
(Kerr, 1782)
Lacccifer lacca chinensis
Mahdihassan, 1923
Họ: Cánh kiến đỏ Laccifridae
Bộ: Cánh giống Homoptera
Đặc điểm nhận dạng:
Côn trùng có kích thước nhỏ, con đực dài khoảng
1,5 mm - 2 mm. Con cái thân dài 4,5 - 5 mm. Con đực có cánh hoặc không cánh
(thường không cánh). Con cái không cánh, ấu trùng dạng cái thuyền, màu đỏ, kích
thước khoảng 0,50 x 0,25 mm.
Sinh học,
sinh thái:
Một con cái có thể sinh ra 300 - 1.000 trứng, đẻ
trong vòng 4 - 12 ngày. Chỉ một thời gian ngắn sau khi nở ấu trùng bò ra khỏi
phòng nhựa để tìm nơi định c lập tổ mới ở các cành cây nhỏ. Tỷ lệ đực cái trong
một đàn thường là 1/3. Mật độ cư trú ở một tổ cánh kiến thường là 150 -
180 ấu trùng trên 1 cm2 của
cành cây. Sau 1 tuần định ca ấu trùng bắt đầu tiết nhựa. Nhựa được tiết ra từ các tuyến trên lớp kitin
phủ thân ấu trùng, trừ vùng hậu môn và lỗ thờ là không có tuyến nhựa. Qua 3 lần
lột xác ấu trùng trở thành con trưởng thành. Thời gian hoàn thành 3 lần lột xác
dài hay ngắn phụ thuộc vào điều kiện môi trường. Cánh kiến đỏ phát triển được thì cần phải có 3
điều kiện chính: nhiệt độ, độ ẩm và cây chủ, có khoảng hơn 100 loài chủ của Cánh
kiến đỏ, bao gồm cả cây trồng và cây dại. Cây chủ chính của cánh kiến ở nước ta
là: Đậu thiều
Cajanus cajan, Cọ phèn
Protium serratum, Sung
Ficus glomerata, Đề
Ficus religiosa, Si
Ficus glomerata,
Táo ta Ziziphus
mauritiana,
Vải Nephelium
litchi... Cánh kiến
đỏ phát triển tốt ở độ cao 500 - 700m. Cánh kiến đỏ phát triển trong mùa khô tốt
hơn trong mùa ma và ở nước ta có hai loài sâu, bướm gây hại lớn cho nghề nuôi
Cánh kiến đỏ là: Ban miêu khoang vàng lớn
Mylabris phalerata
và
Holeocera phulverea.
Phân bố:
Việt Nam: Hà Giang, Tuyên Quang, Lai
Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hà Tây, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Gia Lai, Kontum, Đắc Lắc, Sông Bé, Tây Ninh và Đồng Nai, Đây là loài duy nhất
thuộc bộ cánh giống Homoptera được
đưa vào sách đỏ Việt Nam.
Thế giới:
Ấn Độ,
các nước Đông nam Á và Trung Quốc.
Giá trị sử dụng:
Nhựa cánh kiến đỏ là nguyên liệu
chính làm Sen-lắc, véc-ni đánh bóng đồ gỗ và dùng trong nhiều nghành công nghiệp
điện tử. Vì nó là một loại cao phân tử có nhiều tính chất lý hóa đặc biệt nên
được ứng dụng trong nhiều ngành công nghiệp quan trọng. Chất màu của Cánh kiến đỏ trước kia
được sử dụng trong công nghiệp nhuộm, nay được sử dụng chủ yếu trong công nghiệp
thực phẩm và dược phẩm và ngày càng được ưa chuộng (Lê Thị Phi, 1996). Là
đặc sản và hàng có giá trị xuất khẩu của nước ta. Nuôi trồng Cánh kiến đỏ đúng
kỹ thuật có thể dễ dàng cho thu hoạch bằng giá trị 25 - 45 tấn thóc trên 1 ha.
Tình trạng:
Sự phân bố Cánh kiến đỏ ở nước ta
ngày càng bị thu hẹp vì rừng bị phá hủy. Nước ta là vùng phát triển nuôi Cánh
kiến tốt, tuy vậy đến nay chưa được chú ý phát triển và bảo vệ nguồn gen.
Mức đe dọa: Bậc V.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Cần thiết lập cơ sở nhân nuôi và bảo
vệ nguồn gen. Bảo vệ rừng tự nhiên. Trên cây trồng có Cánh kiến đỏ cư trú cần
tránh dùng các thuốc trừ sâu có hại tới Cánh kiến.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt
Nam phần động vật - trang
389.