Dây leo to có cành hơi đen, có u sần sùi. Lá có
9 - 13 lá chét gần bằng nhau, hình ngọn giáo ngược, gốc tròn hơi có lông ở mặt
trên, có lông mềm ở mặt dưới, rồi trở lên hầu như nhẵn ở cả 2 mặt; cuống lá
chung có lông và có rãnh. Hoa màu hồng nhạt hoặc trắng, xếp thành chùm ở nách.
Quả thuôn hoặc hình ngọn giáo, có 2 cánh, cánh trên rộng và ngoằn ngèo.
Nơi sống và sinh thái:
Loài này mọc ở vùng
Ấn Độ - Malaixia. Ở
Việt Nam cây mọc hoang trong rừng
thứ sinh vùng đồi núi đến độ cao 800m. Có thể thu hoạch rễ quanh năm. Lấy cả rễ con, rửa sạch,
phơi hay sấy khô.
Công dụng:
Dùng làm thuốc duốc cá và diệt trừ các sâu bọ
ăn hại cây cối. Thường dùng tán bột trộn với đậu, lạc để dễ bảo quản trừ mối
mọt, gián nhện. Ở Philippin, nhựa cây dùng trị sâu bọ và dùng duốc cá. Rễ tán
nhỏ, trộn với 40 phần bột tán thành một thứ thuốc trừ sâu rất tốt đối với chó
mèo. Còn ở Ấn Độ,
người ta dùng rễ làm thuốc duốc cá, lá được xem là độc đối trâu bò và cũng
được dùng như trên ở Thái Lan.
Tài liệu dẫn:
Cây thuốc Việt Nam - Võ văn Chi - Trang 387.