THẰN LẰN CHÂN LÁ MINH
THẰN
LẰN CHÂN LÁ MINH
Dixonius minhlei Ziegler et al., 2016
Họ: Tắc kè Gekkonidae
Bộ: Có vảy Squama
Đặc điểm nhận dạng:
Là loài thằn lằn có chiều dài từ mút mõm đến lỗ huyệt 47.5 mm. 7
- 9 vảy môi trên.
14 - 15 hàng nốt sần có gờ trên lưng. 20 - 23 hàng vảy bụng. 7 hoặc 8 lỗ trước huyệt
ở con đực. Một sọc khoé mắt chạy từ mõm qua mắt và kết thúc ở sau đầu. Cặp vảy
mặt bên thứ hai của vảy sau cằm có kích thước bằng ¼ cặp đầu tiên. Lưng màu xám
ô lưu, có ít hoặc nhiều đốm ô lưu nâu rõ
Dixonius minhlei khác các loài cùng Giống Dixonius khác ở những đặc điểm sau:
Khác với loài Dixonius aaronbaueri bởi có nhiều hàng vảy
bụng hơn (20 - 23 so với 18 - 19 ở Dixonius aaronbaueri), nhiều hàng nốt sần lưng hơn
(14 - 15 so với 11 ở Dixonius aaronbaueri), nhiều lỗ trước huyệt hơn ở con đực (7
- 8 so với 5 ở Dixonius aaronbaueri) và khác hoa văn (màu nền xám ô lưu trên lưng, có đốm ô
lưu nâu rõ so với lưng không có hoa văn ở loài
Dixonius aaronbaueri).
Khác với loài Dixonius hangseesom bởi có ít hàng vảy bụng hơn (20
- 23 so với 22 - 26 ở Dixonius hangseesom);
nhiều hàng nốt sần lưng hơn (14 - 15 so với 12
- 14 ở Dixonius hangseesom) và màu của đuôi
giống lưng (so với đuôi màu cam ở Dixonius hangseesom).
Khác với loài Dixonius melanostictus bởi có
nhiều hàng nốt sần lưng hơn (14 - 15 so với 10
- 11 ở Dixonius melanostictus), ít lỗ trước
huyệt hơn (7 - 8 so với 9 ở Dixonius melanostictus) và có sọc khoé mắt nối sau mắt đến
sau đầu (so với sọc khoé mắt trải dọc eo
ở Dixonius melanostictus).
Khác với loài Dixonius siamensis bởi kích thước nhỏ hơn (dài thân lớn nhất 47.5 mm so với
57 mm ở Dixonius siamensis), nhiều lỗ trước huyệt hơn (7
- 8 so với 6 - 7 ở Dixonius siamensis) và có sọc
khoé mắt (so với không có ở Dixonius siamensis).
Khác với loài Dixonius taoi bởi có nhiều lỗ trước
huyệt hơn (7 - 8 so với 5 - 6 ở Dixonius taoi) và khác hoa văn (màu nền xám ô lưu trên
lưng, có đốm ô lưu nâu rõ so với có một hoặc hai hàng đốm không đều chạy từ đầu
dọc theo eo ở Dixonius taoi).
Khác với loài Dixonius vietnamensis bởi có nhiều lỗ trước huyệt hơn
(7 - 8 so với 5 - 7 ở Dixonius vietnamensis) và khác hoa văn mặt lưng của đầu và thân (đốm
tròn trên lưng và đầu rõ hoặc mờ. so với vằn ngang đậm ở chẩm và đốm không đều
hoặc mắt lưới ở trên lưng của
Dixonius vietnamensis).
Sinh học, sinh thái:
Sống chui rúc ban ngày dưới các lớp thảm mục thực vật ở các khu
rừng thường xanh đất thấp dưới 200m. Kiếm ăn và hoạt động ban đêm, thức ăn là
những loài ấu trùng Mối hoặc Kiến sống trong khu vực phân bố. Con cái đẻ 2
trứng ở gốc cây dưới lớp thảm mục thực vật vào đầu mùa mưa. Loài mới được phát
hiện và công bố năm 2016 và được đặt theo tên người bạn và đồng nghiệp của chúng
tôi, Tiến sĩ Lê Đức Minh từ Khoa Khoa học Môi trường, Đại học Khoa học Hà Nội,
Đại học Quốc gia Việt Nam, vì những đóng góp liên tục và quan trọng của ông
trong việc hiểu rõ hơn về sự đa dạng và các mối quan hệ phát sinh gen các loài ở
Việt Nam.
Phân bố:
Trong nước: Khu bảo tồn thiên nhiên văn hóa Đồng Nai, Vườn quốc
gia Cát Tiên, Vườn quốc gia Bù Gia Mập, Bình Phước và Vườn quốc gia Lò Gò - Sa
Mác, Tây Ninh.
Nước ngoài: Cambodia.
Mô tả loài:
Nguyễn Quảng Trường, Phạm
Thế Cường, Phùng Mỹ Trung - WebAdmin.