XÉN TÓC SỪNG GAI
RẮN
MỐNG TRUNG GIAN
Xenopeltis intermedius
Orlov et al., 2022
Họ: Rắn nước Colubridae
Bộ: Có vảy Squamata
Đặc điểm nhận dạng:
Loài rắn có kích
thước lớn. Dài thân 715 mm. Dài đuôi 65 mm. Vảy trên mắt 2. Vảy trước mắt 1. Vảy
sau mắt 1. Vảy dưới mắt 2. Vảy môi trên 7 (công thức 3 - 2 - 2). Vảy môi dưới 7.
Không vảy má. Vảy bụng 174 - 185. Vảy dưới đuôi 16 - 22 cặp. Đầu thon dài. U
trước trán ngắn, chỉ hơi nhô ra trước. Vảy chẩm ít thon dài hơn loài X.
unicolor. Bề mặt phẳng năm cạnh ở phần trước của chẩm chiếm ít hơn một nửa vùng
mặt lưng của chẩm. Từ mặt này có một riềm đơn phẳng vượt qua phía sau trên đường
giữa chẩm, nhìn từ chính diện mẫu nó rẽ đôi ở cuối. Không có những mấu xương gốc
bướm lồi rõ. Phần trên của mặt vuông ở trên hàm dưới khớp rộng và trải ra sau
hơn trước. Màu trong tự nhiên: Không có hoa văn. Mặt lưng màu nâu nhạt, nâu sáng
hoặc nâu xám. Mặt bụng màu sáng hơn hoặc kem vàng. Về mặt vảy phản quang ngũ sắc
dưới ánh sáng tự nhiên do vậy trong nhiều điều kiện ánh sáng khác nhau, màu sắc
của chúng có thể thay đổi theo góc nhìn.
Rắn mống
trung gian Xenopeltis intermedius khác các đặc điểm hình thái với các loài rắn
mống Xenopeltis sp. như sau:
Khác với
Xenopeltis unicolor và Xenopeltis hainanensis ở những
đặc điểm Xenopeltis unicolor có 2 vảy sau mắt, 8 vảy môi trên theo
công thức 3 - 2 - 3. Bụng có 181 - 196 vảy. dưới đuôi có 26 - 31 cặp vảy. X.
hainanensis có 1 vảy sau mắt, 7 vảy môi trên theo công thức 3 - 2 - 2. Bụng có
152 - 174 vảy và dưới đuôi có 16 - 19 cặp vảy. Trong khi Xenopeltis
hainanensis có 1 vảy sau mắt, 7 vảy môi trên theo công thức 3 - 2 - 2. Bụng
có 174 - 185 vảy và dưới đuôi có 16 - 22 cặp vảy. Như vậy Xenopeltis
intermedius khác Xenopeltis unicolor bởi: Số vảy sau mắt (1 so
với 2). - Số vảy bụng 174 - 185 so với 181 - 196 - Số cặp vảy dưới đuôi 16 - 22
so với 26 - 31 Xenopeltis intermedius khác Xenopeltis
hainanensis bởi: Số vảy bụng nhiều hơn (174 - 185 so với 152 - 174. Số cặp
vảy dưới đuôi nhiều hơn (16 - 22 so với 16 - 19)
Hình dáng thon
dài của đầu và kích thước mắt của loài Xenopeltis intermedius nằm
trung gian giữa loài Xenopeltis unicolor (có đầu nhọn và phẳng
hơn. Thân dẹt hơn và mắt lớn hơn) và loài Xenopeltis hainanensis
(có đầu ngắn hơn và ít phẳng hơn. Thân hình trụ tròn hơn, mắt nhỏ hơn và vảy
dưới đuôi rộng hơn) Nếu so sánh mức độ thích nghi của hình dáng cơ thể để
phù hợp với đời sống ẩn nấp trong hang hốc thì loài Xenopeltis
hainanensis cho mức thích nghi cao nhất, kế tiếp là đến loài Xenopeltis
intermedius và mức thấp nhất là Xenopeltis unicolor Xương
sọ của Xenopeltis intermedius có một vài tương đồng với các loài
cùng giống.
Từ những đặc điểm
của sọ như lồi mặt bên ngắn của phần trước trán, mặt vuông rộng nhô ra sau hơn
trước, lồi sắc nhọn chuyển thành góc nhọn trên xương hợp, chúng ta có thể kết
luận Xenopeltis intermedius gần giống loài Xenopeltis
hainanensis hơn là Xenopeltis unicolor. Sọ của Xenopeltis
hainanensis và Xenopeltis intermedius nhỏ gọn hơn, ngắn hơn
và ít hình trụ hơn và xuất hiện ít dây chằng động lực hơn. Sọ của Xenopeltis
intermedius kém thon dài hơn Xenopeltis unicolor và hơi
nhỉnh hơn Xenopeltis hainanensis.
Xenopeltis
intermedius cho thấy sự khác nhau về kích thước, tỉ lệ hình dạng và sự
giảm giảm xương chẩm so với Xenopeltis hainanensis và
Xenopeltis unicolor. Hình dạng của một số xương ở loài Xenopeltis
intermedius thay đổi mức độ tương đồng với Xenopeltis
hainanensis và Xenopeltis unicolor (mũi và trên thái dương).
Xương hình cánh giống hơn với loài Xenopeltis unicolor.
Một số đặc điểm
của hệ thống răng cũng cho thấy điều kiện trung gian: 19 răng vòm và răng hình
cánh ở loài Xenopeltis intermedius so với 15 - 16 răng ở
Xenopeltis hainanensis và 21 - 22 răng ở loài Xenopeltis
unicolor. Xenopeltis intermedius có 18 răng hàm dưới, còn
Xenopeltis hainanensis có 11 - 13 răng và Xenopeltis
unicolor có 25 - 26 răng. Xenopeltis intermedius có 19 răng
xương hàm trê, còn Xenopeltis hainanensis có 22 - 24 và X.
unicolor có 39 - 41.
Sinh học, sinh
thái:
Rắn mống là loại
hoạt động về đêm, ăn cóc nhái, thằn lằn, chim và những loài gặm nhấm nhỏ. Khi
bắt mồi nó sẽ quấn chặt ép chết con mồi. Ban ngày rắn ngủ trên nền đất mềm như
dưới lớp thảm mục trong rừng. Rắn mống là loài sống trong hang hốc, thích nơi ẩm
ướt ở độ cao 400 - 1.000m so với mặt nước biển.
Phân bố:
Loài đặc hữu ở
Việt Nam, mới phát hiện và công bố năm 2022 ở Mang Cành Kon Plông, tỉnh Kontum,
Việt Nam (14°41’25’’ N 108°19’31’’ E).
Mô tả loài:
Nguyễn Quảng Trường, Phạm Thế Cường, Phùng Mỹ Trung - WebAdmin.