Loài
nhái cây
có kích thước trung bình, con đực nhỏ hơn con cái. Kích thước con cái từ
28.7 - 36.6mm (tính chiều dài từ mút mõm đến hậu môn). Chiều dài đầu (từ mút mõm
đến góc sau hàm dưới) 13, 4 đến 36,9% so với chiều dài thân. Chiều dài đầu ngằn
hơn chiều rộng 13,8 đến 38,0% so với chiều dai thân. Mõm nhỏ từ 5,2 đến 14,3% so
với chiều dài thân. Các giác bám hình đĩa rất rõ, đây là đặc trưng của những
loài ếch sống trên cây. Mút mõm khá nhọn, da trên lưng con cái có màu lục nhạt,
đồng nhất và không có đốm khác màu. Đây là một trong những đặc điểm đặc trưng
của loài này vì hầu hết các loài cùng chi Kurixalus đều có màu nâu
xám. Ở một số các thể đực phần đỉnh đầu có hình tam giác màu xám và phần da lưng
có màu xanh và màu nâu nhạt không đồng nhất. Mặt bụng màu vàng chanh nhạt, cùng
màu với mặt dưới của giác bán ở cả chân trước lẫn chân sau.
Sinh học, sinh thái:
Sống
ở độ cao từ 1300m trở lên ở các khu vực rừng thường xanh núi cao. Thường xuất
hiện vào mùa mưa và sau những cơn mưa lớn để kiếm ăn và giáo phối và bám trên lá
cây hay các mảng rêu trên vách đá ở độ cao trên 1.500 m (so với mực nước biển).
Tên loài được đặt theo màu sắc của chúng.
Phân
bố:
Loài nhái
cây mới được phát hiện tại khu vực thu được mẫu vật chuẩn là Khu Bảo tồn thiên
nhiên Hòn Bà ở tỉnh Khánh Hòa và Vườn Quốc Gia Bìdoup Núi Bà ở tỉnh Lâm Đồngphía Nam Việt Nam.
Mô
tả loài:
Nguyễn Thiên Tạo – Phùng Mỹ Trung – WebAdmin.