HẰN LẰN CHÂN LÁ TẠO
THẰN
LẰN CHÂN LÁ TẠO
Dixonius taoi Botov
et al.,
2015
Họ: Tắc kè Gekkonidae
Bộ: Có vảy Squama
Đặc điểm nhận dạng:
Là loài thằn lằn có kích thước nhỏ, chiều dài từ mút mõm đến lỗ huyệt 44 mm. 7
hoặc 8 vảy môi trên. 11 hoặc 12 hàng nốt sần có gờ trên lưng. 21
- 23 hàng vảy
bụng. 5 hoặc 6 lỗ trước huyệt ở con đực. Một sọc khoé mắt chạy từ mõm qua mắt và
kết thúc ở sau đầu. thứ hai mặt bên của vảy sau cằm có kích thước bằng 1/3 đến
một nửa cặp đầu tiên. Lưng màu nâu có đếm vàng/cam xếp thành một hoặc hai hàng
dọc thân và vằn không đều hoặc hoa văn mạng lưới.
Dixonius taoi khác các loài cùng
Giống
Dixonius khác ở những đặc điểm sau:
Khác với loài Dixonius aaronbaueri bởi có nhiều hàng vảy
bụng ở giữa thân hơn (21 - 23 so với 18 - 19 ở
Dixonius aaronbaueri) và khác hoa văn
(lưng màu nâu có đốm vàng/cam và vằn không đều so với không hoa văn ở
Dixonius aaronbaueri)
Khác với loài Dixonius hangseesom bởi có ít hàng vảy bụng (21
- 23 so với 22 - 26 ở Dixonius hangseesom), ít lỗ trước huyệt ở con đực hơn (5
- 6 so với 6 - 8 ở Dixonius
hangseesom), màu đuôi giống với màu lưng (so với đuôi màu cam ở
Dixonius hangseesom).
Khác với loài Dixonius melanostictus bởi có kích thướ nhỏ hơn (dài thân lớn nhất 44 mm so với
50 mm ở Dixonius melanostictus), ít vảy môi trên hơn (7
- 8 so với 9 ở Dixonius
melanostictus, ít lỗ trước huyệt ở con đực hơn (5
- 6 so với 9 ở Dixonius
melanostictus) và sọc khoé mắt liền mạch từ sau mắt đến sau đầu (so với sọc khoé
mắt trải dọc thân ở Dixonius melanostictus).
Khác với loài Dixonius siamensis bởi kích thước nhỏ hơn (dài thân lớn nhất 44 mm so với 57 mm ở
Dixonius siamensis), có sọc khoé mắt rõ (so với
không có ở Dixonius siamensis).
Khác với loài Dixonius vietnamensis bởi có nhiều hàng vảy bụng hơn
(21 - 23 so với 20 ở Dixonius vietnamensis), ít hàng vảy lưng hơn (11
- 12 so với 16 ở Dixonius
vietnamensis), có một hoặc hai hàng đốm màu vàng không đều từ đầu dọc theo eo và
xuống đáy đuôi ở con trưởng thành (so với nốt sần màu cam rải rác chỉ có ở con
chưa trưởng thành của Dixonius vietnamensis)
Sinh học, sinh thái:
Sống trong các khu rừng với thảm thực vật ven biền,
nơi có nhiều bụi Dứa dại -
Pandanus
odoratissimus và cả ở các bụi rậm trong khu vực đất nông nghiệp trên đảo.
Chúng rất nhanh nhẹn và chui rúc dưới lớp thảm mục thực vật nên rất khó thấy.
Thức ăn là những loài ấu trùng của các loài mối, kiến trong khu vực phân bố. Đẻ
2 trứng dưới lớp thảm mục thực vật vào đầu mùa mưa.
Loài mới này được đặt tên để vinh danh đồng nghiệp
và người bạn của chúng tôi, Tiến sĩ Nguyễn Thiện Tạo từ Bảo tàng Thiên nhiên
Quốc gia Việt Nam, để ghi nhận những đóng góp khoa học mang tính đột phá và to
lớn của ông nhằm hiểu rõ hơn về hệ động vật bò sát của Việt Nam.
Phân bố:
Trong nước: Loài đặc hữu ở Việt
Nam, phát hiện và công bố năm 2015 ở đảo Phú Quí, tỉnh Bình Thuận.
Nước ngoài: Không có.
Mô tả loài:
Nguyễn Quảng Trường, Phạm
Thế Cường, Phùng Mỹ Trung - WebAdmin.