THẰN LẰN CHÂN NGÓN BÍCH NGÂN
THẰN
LẰN CHÂN NGÓN
BÍCH NGÂN
Cyrtodactylus
bichnganae Ngo Van Tri & Grismer, 2010
Họ:
Tắc kè Gekkonidae
Bộ:
Có vảy Squama
Đặc điểm nhận dạng:
Chiều dài từ mút
mõm đến lỗ huyệt 95.3 - 99.9 mm; Thân, chân và ngón dài, mảnh. Đuôi gốc dài (dài
đuôi / dài thân 1.16). Có vạch gái. Hoa văn lưng gồm 6 hoặc 7 vằn thâm trên nền
nâu. 9 khoanh trắng ở đuôi. Vảy đùi và trước huyệt sinh lỗ tách nhau. 10 vảy
trước huyệt sinh lỗ ở con đực, tách biệt với 9 vảy đùi sinh lỗ ở mỗi bên bởi 2
vảy không lỗ. 18 - 19 vảy gian mắt dọc theo xương trán. 18 - 19 vảy giữa mắt và
mũi. 30 - 31 hàng vảy bụng giữa các nếp da bụng bên. 16 - 18 hàng dọc không đều
nốt sần hình nón mịn ở thân giữa. 26 - 27 nốt sần bên xương sống. 16 - 20 màng
da dưới ngón đầu tiên chân sau. 21 - 22 màng da dưới ngón thứ IV chân sau. Không
có nốt sần ở đuôi. Vảy dưới đuôi nở rộng ngang.
Cyrtodactylus
bichnganae khác các loài cùng giống Cyrtodactylus ở những đặc điểm sau:
Khác Cyrtodactylus sonlaensis bởi kích thước
lớn hơn hơn (dài thân
71.2 - 83.2 mm so với 95.3 - 99.9 mm Cyrtodactylus bichnganae), có
ít vảy đùi nở rộng hơn trên mỗi đùi
(15 - 17 so với 11 - 13), ít lỗ đùi mỗi bên hơn ở con đực (14
- 15 so với 9), và nhiều
lỗ trước huyệt hơn ở con đực (8 so với 10);
Các loài Cyrtodactylus otai và
Cyrtodactylus bobrovi, Cyrtodactylus bobrovi đều có vảy dưới đuôi nở rộng nhẹ,
trong khi loài Cyrtodactylus bichnganae đều nở rộng rõ.
Khác với loài
Cyrtodactylus caovansungi và Cyrtodactylus phuhuensis bởi thiếu lỗ đùi (so với 3
và 9 theo thứ tự ở hai loài) và có ít lỗ trước huyệt hơn (5 so với 9 và 10 theo
thứ tự ở hai loài).
Khác các loài sau
bởi Cyrtodactylus bichnganae có ít hàng vảy bụng hơn
(30 - 31) so với
Cyrtodactylus
soni (41 - 45 ), Cyrtodactylus badenensis
(25 - 29), Cyrtodactylus
chauquangensis (36 - 38), Cyrtodactylus grismeri (33 - 38),
Cyrtodactylus puhuensis (36), và Cyrtodactylus ziegleri (33 - 39).
Sinh học. sinh thái:
Sống ở những khu
rừng thường xanh núi đá vôi hỗn giao cây gỗ cứng và bụi ở độ cao trên 600 m (so
với mực nước biển), Hoạt động, kiếm ăn về đêm, cạnh các nơi ẩn náu, rình mồi ở
các vách đá. Thức ăn là những loài côn trùng trong khu vực phân bố. Con cái đẻ 2
trứng trong kẽ nứt các tảng đá vôi vào đầu mưa, giới tính con non hoàn toàn do
nhiệt độ môi trường quyết định. Màu da của nó gần giống với màu khu vực nơi loài
này sinh sống sẽ giúp ích cho việc ngụy trang với kẻ thù và bắt con mồi.
Phân bố:
Loài mới phát hiện năm 2010 trong các khu rừng núi đá vôi gần thị trấn Sơn La,
tỉnh Sơn La, Tây Bắc Việt Nam (21°21'N 103°54'E), độ cao khoảng. 600 m. Loài mới
được đặt tên Ngô Hoàng Bích Ngân là con gái của nhà nghiên cứu bò sát thuộc Họ
Tắc kè Gekkonidae. Người đã phát hiện và công bố rất nhiều loài mới ở Việt Nam.
Mô tả loài: Phùng Mỹ Trung, Nguyễn Quảng
Trường, Phạm Thế Cường - WebAdmin.