Trang chủ | Tổng quan | Mẫu gỗ | Vườn quốc gia | English

Từ điển Latin-Việt

TỰ NHIÊN BÍ ẨN

THÔNG TIN MỚI

TRA CỨU ĐỘNG VẬT RỪNG VIỆT NAM

(Hơn 2350 loài thuộc các họ, bộ, nhóm khác nhau)
Cập nhật 20/11/2023

 

 

Tên Việt Nam: Rắn giun thường
Tên Latin: Indotyphlops braminus
Họ: Rắn giun Typhlopidae
Bộ: Có vảy Squamata 
Lớp (nhóm): Bò sát  
       
 Hình: Phùng Mỹ Trung  
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
    RẮN GIUN THƯỜNG

RẮN GIUN THƯỜNG

Indotyphlops braminus (Daudin, 1803)

Eryx braminus Daudin, 1803

Tortrix russelii Merrem, 1820

Onychocephalus capensis Smith, 1846

Ophthalmidium tenue Hallowell, 1861

Họ: Rắn giun Typhlopidae

Bộ: Có vảy Squamata

Đặc điểm nhận dạng:

Chiều dài tổng 95 mm  -  200 mm. Vảy mõm bằng 0.25 - 0.33 chiều rộng của gian mắt, không chạm mắt, có thể nhìn thấy từ trên đỉnh đầu. Vảy trước mắt xiên, dài gấp hai rộng. Vảy đỉnh đầu ngang, nở rộng và vảy chẩm đôi khi nở rộng. Vảy mũi tròn, có một ống mũi ngang.Vảy mũi phân chia hoàn toàn, phía sau bao lõm mạnh, gờ mũi phía dưới nối với vảy trước mắt và gờ trên mũi chạy đến mặt lưng của mõm để nối với vảy mõm ở điểm thắt lại trên nó. Vảy môi trên 4, trong đó vảy thứ ba và bốn chạm mắt. Vảy môi dưới 5 - 6. Vảy trước mắt. Vảy sau mắt 1. Vảy thân xếp lợp và thường có dạng vòng ở vùng lưng, dạng hình thang ở điểm tiếp xúc với vùng bụng. Đuôi dài hơn hơn rộng. Gai đỉnh có đáy tuỳ, hướng ngang. Vảy thân xếp thành 20 hàng, không có sự giảm hàng. 261 - 368 hàng vảy ngang. Vảy dưới đuôi 8 - 15. Thân mảnh, nhỏ, hình trụ. Đầu ngắn, không rộng hơn cổ, hóp nhẹt. Mõm tròn. Mắt rất nhỏ. Lưỡi trắng. Thân màu đen, nâu hoặc nâu đỏ ở lưng và nhạt hơn ở bụng. Con non mới nở màu đen.

Sinh học, sinh thái:

Loài này thường sống chui rúc dưới mặt đất, dưới các đống đổ nát phủ trên mặt đất, hoặc trong các cây mục quanh nhà hay trong các khu rừng thường xanh. Hoạt động mạnh trong suốt mùa mưa. Vào mùa đông, tất cả chúng đều vùi sâu trong đất và dưới đám rễ cây. Vào mùa hè, chúng rất ít khi lên mặt đất vì nhiệt độ cao, chúng thích nằm dưới đất mát mẻ. Thức ăn chủ yếu của rắn giun thường là trứng kiến và mối. Được ghi nhận là loài rắn "trinh sản" sinh sản đơn tính. Mọi cá thể đều là giống cái hay giống đực vẫn chưa có dẫn liệu. Con cái đẻ từ 1 - 7 trứng, kích thước 2 x 6 mm, không có sự thụ tinh. Tất cả trứng nở ra đều là giống cái. Rắn giun thường sống ở những nơi có độ cao từ mực nước biển đến 1.640 m. Do sống ở các khu vực mát, lạnh trong đất nên loài này khi bị bắt ra ngoài nắng, cầm trên lòng bàn tay chúng rất dễ bị sốc nhiệt và sẽ chết rất nhanh.

Phân bố:

Trong nước: Bắc Thái (Ký Phú, Lạng Sơn, Hà Nội (Nghĩa Đô, Hà Bắc (Thăng Long), Hải Phòng (Cát Bà, Thái Bình (Đồng Tiến) Hà Tĩnh (Hoà Hải), Quản Trị (Vĩnh Linh) Quảng Nam - Đà Nẵng (Cù lao Chàm), Gia Lai (Nông trường Sông Ba), Tây Ninh, thành phố HCM, Kiên Giang (Hà Tiên)

Nước ngoài: loài rắn này được tìm thấy trên khắp Thái Lan, bán đảo Malaysia, và Singapore. Nó cũng được ghi nhận từ Châu Phi, vùng Trung Đông, các vùng còn lại của châu Á nhiệt đới và một số khu vực của châu Á có khí hậu ôn hòa, từ các đảo trên Thái Bình Dương và từ Mexico và Hoa Kỳ.

Tình trạng:

Số lượng loài này tương đối hiếm gặp vì chúng sống trong lòng đất và ít khi chui ra ngoài kiếm ăn hay hoạt động nên khả năng nhìn thấy trong tự nhiên khó gặp.

 

Mô tả loài: Nguyễn Thiên Tạo, Phùng Mỹ Trung, Phạm Thế Cường, Nguyễn Quảng Trường - WebAdmin.

 

 

 

Bản đồ phân bố của loài:

 

Rắn giun thường

 

 

 
 

 


Giới thiệu | Tra cứu | Danh pháp | Diễn đàn | Liên hệ | Văn Bản | Trợ giúp | SVR Mobile

Mọi chi tiết xin liên hệ Admin website Sinh vật rừng Việt Nam
© Ghi rõ nguồn '
Sinh vật rừng Việt Nam' khi bạn phát hành lại thông tin từ Website này