|
RONG MƠ QUI NHƠN
RONG MƠ QUI NHƠN
Sargassum quinhonense
Dai, 1992
Họ: Rong mơ Sargassaceae
Bộ:
Rong fuca Fucales
Đặc điểm nhận dạng:
Rong khô có màu nâu đen, mọc cao 1,5
- 2 m hay hơn, đĩa bám mỏng nhưng rất chắc, đôi khi có chia thuỳ, hai trục chính
có thể cùng chung một đĩa bám. Trục chính rất ngắn, mang 2 - 4 nhánh chính hình
trụ, mịn, rộng cỡ 1 mm, trơn nhẵn. Các nhánh bên dài hơn 20 cm. Lá tương đối dày,
ở phần gốc dài 5 - 8 cm, rộng 0,5 - 1 cm. Lá ở phần trên ngắn hơn, chót lá cùn,
cuống thon; mép lá không răng cưa, hơi gơn sóng hay nguyên, gân giữa thấy được,
ổ lông nhỏ, rải rác. Túi khí (phao) nhiều, hình xoan, to 0,5 - 1 cm. Túi khí
thường nằm ở chót lá và tận cùng có 2 gai như vành tai. ở các nhánh phía trên,
lá có mang túi khí nhỏ hơn nhưng lúc nào cũng nằm ở chót lá. Thỏi sinh sản (đế)
cô độc, hình 3 cạnh, có răng cưa, dài 5 mm ở chót nhánh, có thể gặp chùm thưa 2
- 3.
Sinh học và sinh thái:
Rong mọc trên bờ đá, san hô chết,
nơi có nước trong, sóng mạnh, làm thành từng đám, chỉ sống 1 năm, sinh sản hữu
tính nhờ sự phối hợp của giao tử cái (trứng) và giao tử đực (tinh trùng).
Phân bố:
Trong nước:
Mới thấy ở Bình Định (Quy Nhơn, Gành
Ráng).
Thế giới:
Chưa biết.
Giá trị:
Loài đặc hữu của Việt Nam. Nguồn gen
độc đáo với lá mang phao thuộc nhóm Phyllocyst của Rong mơ Việt Nam. Được
khai thác để ăn như một loại rau, thuốc chữa bệnh, chiết alginar, làm phân bón.
Tình trạng:
Loài có nơi phân bố hẹp, sinh sản
hữu tính và sống 1 năm, việc khai thác trước khi rong hình thành giao tử sẽ làm
mất nguồn gen này.
Phân hạng:
VU A1a,c,d.
Biện pháp bảo vệ:
Cần có biện pháp khai thác đúng mùa
vụ, khi rong đã phóng thích cơ quan sinh sản.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 520. |
|