|
NƯA CHUÔNG
Amorphophallus paeoniifolius
(Dennst.) Nicols.
Amorphophallus
campanulatus
Blume ex Decne.
Họ: Ráy Araceae
Bộ:
Ráy Arales
Đặc điểm nhận
dạng:
Cây thảo sống
hằng năm có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi
mang một số rễ phụ và có những nốt như củ Khoa tây chung quanh có 3-5 mấu lồi;
vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có
một lá có cuống cao tới 1,5m, màu xanh sẫm có đốm bột trắng; phiến chia làm ba
nom tựa lá đu đủ. Cụm hoa gồm có một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong
màu đỏ thẫm, bao lấy một bông mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa
đực ở trên.
Sinh học, sinh
thái:
Nưa chuông mọc
hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về
trồng cũng đã lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để
làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh.
Phân bố:
Loài phân bố ở Ấn
Độ, Mianma, Trung quốc, Việt Nam, Campuchia, Malaixia, Indonesia và Philippin. Ở
nước ta loài này gặp ở Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Bắc, Hoà Bình, Hà Tây, Nghệ an,
Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Củ nưa chuông được trồng chủ yếu để lấy bột.
Bột này trắng mịn giống như bột Sắn những có tỷ lệ tinh bột cao hơn nhiều. Dọc
nưa cũng ăn được, những phải ngâm nước vo gạo cho hết ngứa rồi có thể dùng nấu
canh dấm, muối dưa.
Công dụng:
Vị cay, tính nóng,
có độc. Củ có tác dụng lợi tiêu hoá, bổ dưỡng hồi phục sức khoẻ, lợi trung tiện.
Cũng dùng như Khoai nưa. Ở Ấn độ người ta dùng để chữa trĩ
và kiết lỵ. Nếu dùng tươi, nó tác dụng như một chất kích thích và làm long đờm
và có thể dùng để trị thấp khớp cấp tính. Ở Thái lan, củ dùng làm
thức ăn phụ cho người bị bệnh đái đường.
Tài liệu dẫn:
Cây thuốc Việt Nam – Võ Văn Chi – trang 840. |
|