|
New Page 1
CHỒN VÀNG
Martes flavicula
Boddaert, 1785
Họ: Chồn
Mustelidae
Bộ: Ăn thịt
Carnivora
Đặc điểm nhận dạng:
Loài thú ăn thịt nhỏ có kích thước trung bình Dài thân 450 -
600mm, dài đuôi 380 - 450mm. Con trưởng thành có thể cân nặng từ 3 -
5kg. Lưng màu vàng đất, mông và chi phớt nâu xám, Đầu gáy bàn chân và đuôi nâu
đen. Bụng vàng nhạt. Cằm và má trắng.Chân
có gan bàn chân trần và các móng vuốt sắc
Sinh học, sinh thái:
Chồn vàng sống trong nhiều
sinh cảnh khác nhau, kể cả trên các đồi cây bụi và rừng ngập mặn. Thích hợp là
các rừng cây gỗ, trú thân trong các hốc cây, hốc đá, hang đất và cả trong bụi
rậm. Sống đơn đôi khi theo nhóm nhỏ 3 - 4 con. Chồn vàng nổi tiếng là loài leo
trèo giỏi và có tốc độ di chuyển rất nhanh. Bơi lội tốt, kiếm ăn
ngày hoặc đêm
(phụ thuộc vào khả năng và hoạt động của con mồi. Rất khôn khéo lúc hoạt động. Chồn vàng ăn các loại chim
sóc, chuột, rắn và cả các
loài thú có kích thước lớn hơn nó (khỉ, cheo cheo, và
các loài cầy vòi ăn quả). sinh sản vào mùa hè, mang thai 220 - 290 ngày. Mỗi năm
đẻ một lứa, mỗi lứa 1 - 3 con.
Phân bố:
Vùng Đông
Á,
Siberia đến các đảo thuộc Malaixia và Indonesia, phía tây đến Pakistan. Ở nước
ta, Chồn vàng có ở hầu khắp các tỉnh có rừng, kể cả
rừng ngập mặn. Chồn vàng
có thể gây những tác hại
đáng kể đối với các loài động vật săn bắn và động vật nuôi.
Tình trạng:
Số lượng chồn vàng kkhông
còn nhiều do săn bắt quá mức và phá rừng làm mất nơi sống tự nhiên của chúng.
Đề nghị biện
pháp bảo vệ,
Cấm săn, bẫy bắt, kết hợp
với biện pháp bảo vệ môi sinh, môi trường sống của chúng
trong tự nhiên.
Nâng cao ý thức người dân nhằm nhận biết và bảo tồn loài động vật này
bằng cách không săn, bắn, bẫy, bắt chúng.
Tài liệu dẫn:
Động vật rừng - Phạm Nhật - trang 170, Danh lục thú Việt Nam.
|
|