|
New Page 1
BÌNH VÔI QUẢNG
TÂY
Stephania kwangsiensis H. S.
Lo, 1978.
Họ: Tiết dê Menispermaceae
Bộ: Mao lương Ranunculales
Mô tả:
Loài cây thảo, sống nhiều
năm, rễ củ to, nói chung dạng cầu, sần sùi, kích thước thay đổi nhiều. Thân nhỏ,
mọc leo. Thân, lá, cụm hoa đều không lông. Lá đơn nguyên mọc cách, cuống dài 3 -
9cm, phiến lá tròn dạng tam giác đến gần tròn, dài và rộng đều 5 - 12cm, gân 9 -
11 chiếc, xếp dạng chân vịt, xuất phát từ chỗ đính của cuống lá.
Hoa đơn tính khác gốc. Cụm
hoa đực và cái đồng hình, đều do một số xim tán hợp thành dạng ngù, cuống xim
tán dài khoảng 2cm. Hoa đực có 6 lá đài xếp 2 vòng, mỗi vòng 3, lá đài vòng
ngoài hình thìa, dài 1,5 - 1,6mm, rộng 0,4 - 0,6mm, lá đài vòng trong hình trứng
ngược, nhỏ hơn ở vòng ngoài, cánh hoa 3, màu hồng cam, hình quạt, cong dạng vỏ
hến, dài 0,7mm, rộng 0,8mm, nhị dính thành cột cao khoảng 1mm, bao phấn dính
thành đĩa, 4 ô.
Hoa cái có một lá đài và 2
cánh hoa dính về một phía của hoa, lá đài màu lục nhạt, cánh hoa màu hồng cam,
hình trứng rộng, bầu hình trứng đảo, có cuống. Quả hình trứng đảo, hơi dẹp hai
bên. Hạt hình trứng ngược, dài khoảng 5mm, rộng khoảng 4mm, có lỗ thủng ở giữa,
trên lưng hạt có 4 hàng gai, mỗi hàng gai có 18 - 19 gai cong dạng móc.
Sinh học:
Mùa hoa tháng 3 - 4, mùa quả
chín tháng 7 - 8. Tái sinh chồi vào mùa xuân ở thân cành già và ở cổ rễ củ. Còn
có thể trồng bằng rễ củ (đã trồng thử). Chưa thủ nghiệm trồng bằng hạt.
Nơi sống và sinh thái:
Cây sống ở rừng tứ sinh,
trên núi đá vôi, độ cao từ 10 - 100 m. Cây thường mọc bám vào đá. Khi trồng ở
bãi đất bằng vẫn sống tốt. Cây ưa sáng, ẩm, khô quá không phát triển được. Tuy
nhiên có khả năng chịu nắng.
Phân bố:
Việt Nam: Quảng Ninh (Cẩm
Phả).
Thế giới: Trung Quốc (Quảng
Tây).
Giá trị:
Nguồn dược liệu qúy, là
nguyên liệu chủ yếu chiết 1 - tetrahydropalmatin để bào chế các dạng thốc chữa
đau thần kinh.
Tình trạng:
Đang nguy cấp. Do khu phân
bố hẹp, từ trước đến nay đã khai thác nhiều và vẫm tiếp tục bị khai thác ngày
càng kiệt dần. Mức độ đe doạ: Bậc E.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Cần điều tra khảo sát lại
khu phân bố trên, đồng thời tìm kiếm thêm ở một số nơi khác và đưa giống về
trồng để bảo vệ nguồn gen và làm thuốc.
Tài
liệu dẫn:
Sách
đỏ Việt Nam - trang 263.
|
|