Chiều dài thân
tối đa 69mm, dài thân ngắn hơn dài đuôi. Đầu có một vạch đen ở gáy, kéo dài tới mép sau ổ mắt; thân, đuôi và
chân có những vạch nhỏ, không xếp theo trình tự: 4
- 6 vạch sáng màu trên thân và
4 - 12 vạch trắng trên đuôi; nốt sần trên lưng xếp thành 16
- 22 dọc thân; 28 -
42 hàng vảy bụng ở ngang giữa thân; nếp da gấp bên sườn không phát triển hoặc
biến mất, không có các nốt sần lớn; đuôi không dẹp, phần gốc đuôi không phình
to, vảy sắp xếp thành dạng vòng; con đực có 6
- 8 lỗ trước hậu môn xếp liền nhau
tạo thành góc tù; cả con đực và cái đều có một đám vẩy lớn nằm ở vùng trước hậu
môn và có 3 - 8 vảy lớn nằm ở phía dưới mỗi bên đùi; không có lỗ đùi, không có
rãnh trước hậu môn; vảy dưới đuôi nhỏ, không phình rộng theo chiều ngang.
Sinh học, sinh thái:
Loài
bò sát ăn đêm này thường sống trong các gốc cây lớn hay thảm mục thực vật
trên nền rừng. Thỉnh thoảng bắt gặp chúng sống ở các tảng đá cô đơn trong rừng.
Thức ăn là các loài
côn trùng nhỏ và thường đẻ từ 2 - 4 trứng, trứng được lấp trong các hốc cây,
gốc cây. Thời gian mang trứng vào đầu mùa mưa (ghi nhận ở Mã Đà
- Đồng Nai và
núi Dinh - Bà Rịa - Vũng Tàu).
Phân bố:
Loài mới phát hiện ở
Vườn quốc gia Cát tiên
Đồng Nai và còn phân bố ở Núi Dinh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước…