RẮN HỔ MANG
RẮN HỔ MANG MỘT MẮT KÍNH
Naja kaouthia
Lesson, 1831
Naja naja
Linnaeus, 1758
Coluber naja
Linnaeus, 1758
Naja
tripudians
Merrem, 1920
Họ: Rắn hổ Elapidae
Bộ: Có vảy Squamata
Đặc điểm nhận dạng:
R8án có kích thước
lớn, khi rắn bạnh cổ,
trên cổ ở mặt lưng có một hình tròn màu sáng (mắt kính) chính giữa có một vết
nâu đen. ở cổ về mặt bụng có một cặp vết nhỏ nằm ngang.
Màu sắc
ở lưng đa dạng thay đổi từ màu nâu xẫm tới màu nâu xám. Đa số cá thể mặt lưng
đồng màu. Một số ít cá thể có những vạch ngang hơi sáng song không rõ rệt. Ngoài
ra, Rắn hổ mang đất còn có một số đặc điểm chi tiết phân biệt với Rắn hổ mang
trung quốc.
Sinh
học, sinh thái:
Rắn hổ
đất hay rắn hổ mang một mắt kính thiếu gọng sống ở đồng bằng, trung du và miền
núi. Hoạt động về ban đêm, ban ngày trú trong hang mối hoặc hang chuột nhiều
trường hợp rất gần với nơi ở của con người.
Rắn trưởng thành ăn chuột, cóc, rắn... rắn non ăn ếch nhái,
lưỡng cư là chủ yếu. Rắn
giao
phối vào tháng 5 và đẻ trứng vào tháng 6, đẻ 9 - 22 trứng, kích thước 59 - 62 /
29 - 29mm và có hiện tượng con các canh giữ trứng. Trứng nở vào tháng 8. Con non
mới nở dài 200 - 350mm và có khả năng bạnh cổ..
Con non mới nở dài 280 - 350mm, cũng thường dài hơn Rắn hổ mang trung quốc. Con
non mới nở đã có thể bành cổ hung dữ và có nọc độc gây nguy hiểm cho người.
Phân
bố:
Trong
nước:
Phân bố chủ yếu ở miền Nam và Nam Trung Bộ.
Ở miền Bắc Việt Nam rất hiếm gặp.
Thế giới: Banglađét,
Bắc Ấn Độ, Nêpan, Nam Trung Quốc, Mianma, Lào, Thái Lan, Cămpuchia, Bắc
Malaixia.
Giá trị:
Là loài có giá trị khoa học.
Rắn hổ mang là loài rắn độc cắn chết người.
Tuy nhiên nọc độc của chúng cũng được dùng làm thuốc chữa đau
các khớp xương, tê thấp, còn dùng làm thuốc tê.
Tình trạng:
Số lượng rắn hổ mang hiện nay suy giảm rất nhiều ít do bị săn bắt triệt để.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Cấm săn bắt rắn non, cấm
bắt trong mùa
sinh sản từ tháng 4 đến tháng 6, cần tổ chức nuôi.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt
Nam
trang 210.
|