Kích
thước trung bình, chiều dài thân lớn nhất đạt 70,1 mm. Đuôi tương đối ngắn
(TL/SVL: 1,03 - 1,08) có 10 vòng nâu đậm và trắng nhạt xen kẽ. Trên đầu không có
các đốm nâu đen. Vạch vòng sau gáy bị đứt đoạn thành các mảnh màu đen. Thân có
màu nâu, lưng có nhiều đốm nâu đậm lớn nhỏ khác nhau. 4
- 10 vảy gian trước mũi.
17 - 19 vảy giữa hai ổ mắt. 23 - 26 vảy giữa mắt và mũi. 42
- 48 hàng vảy bụng. 20 - 22 hàng nốt sần không đều dọc giữa thân. 34
- 35 nốt sần dọc xương sống ở phần thân
giữa chân trước và chân sau. Con đực có 5 hoặc 6 lỗ trước huyệt xếp thành dải bị
ngăn cách ở giữa bởi một vảy không mang lỗ. Không có rãnh trước huyệt. 3 hoặc 4
lỗ đùi ở mỗi bên ở con đực. 4 - 7 vảy đùi nở rộng. 12
- 13 nếp da dưới ngón chân sau
thứ nhất. 18 - 19 nếp da dưới ngón chân sau thứ tư. Vảy dưới đuôi nhỏ.
Sinh học, sinh thái:
Loài
bò sát kiếm ăn đêm thường sống ở khu vực rừng thường xanh và chỉ xuất hiện vào
ban đêm trên nền rừng nơi có thảm thực vật dày và các gốc cây lớn. Thức ăn là những loài côn trùng sống trong khu vực. Đẻ 2 trứng vào đầu
mùa mưa hằng năm. Tên loài được vinh danh GS.TS Hoàng Đức Đạt
vì những đóng góp của ông trong nghiên cứu động vật ở Việt Nam..
Phân
bố
Loài
đặc hữu của Việt Nam và là loài mới phát hiện năm
2013 bởi nhà nghiên cứu bò sát Ngô Văn Trí ở Bình Phước (Bù Đốp).