Home | Overview | Timbers | National parks | Vietnamese

FOCUS IN WILDLIFE
NEW EVENTS

 

DESCRIPTION OF VIETNAM FAUNA

(More than 2000 species of faunas in Vietnam)
Update 20/12/2016

Vietnam name: Tê giác một sừng
Latin name: Rhinoceros sondaicus
Family: Rhinocerotidae
Order: Perissodactyla
Class (Group): Mammal 
       
Picture: Cattien national park  
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
  TÊ GIÁC MỘT SỪNG

TÊ GIÁC MỘT SỪNG

Rhinoceros sondaicus Desmarest, 1822

Rhinoceros inernus Lesson, 1840

Rhinoceros floweri Gray, 1867.

Họ: Tê giác Rhinocerotidae

Bộ: Ngón lẻ Perissodactyla

Đặc điểm nhận dạng:

Thân cỡ lớn nhất trọng họ Tê giác Rhinocerotidae ở Việt Nam, có thể dài tới 3m. Trọng lượng: trên 2000 kg. Thị giác kém phát triển. Trên mũi chỉ có 1 sừng (thường chỉ có ở con đực) mọc ngay trên mũi, sừng do lớp biểu bì tạo thành nên không gắn liền với xương sọ mà gắn với lớp biểu bì của da. Da dầy cứng, lông rất thưa, với 3 nếp gấp sâu và nhiều nếp gấp nhỏ chia bề mặt da thành nhiều mảnh (giống áo giáp). Lưng và hai bên hông mầu xám sẫm, bụng mầu hơi đỏ. Chân to, bàn chân 3 ngón với móng guốc hình bán nguyệt, móng giữa to hai móng bên nhỏ.

Sinh học - Sinh thái:

Thức ăn của tê giác là củ, quả, rễ cây, cành lá cây nhỏ, kể cả cành cây nhỏ có gai. Tuổi sinh sản 4 - 5 năm. Thời gian có chửa 16 - 18 tháng; 3 - 4 năm đẻ 1 lứa, mỗi lứa 1 con. Tê giác sống đơn độc trong rừng già ở những nơi sâu kín ít ngươi qua lại. Nơi ở thường gần các sình lầy ẩm ướt, thích ngâm mìmh trong bùn nước.

Phân bố:

Trong nước : Lâm Đồng (Cát Lộc thuộc Vườn quốc gia Cát Tiên).

Thế giới: Đông Pakixtan, Ấn Độ, Mianma, Thái Lan, Lào, Malaixia, Inđônêxia (Sumatra).

Giá trị:

Thú quý hiếm. Có giá trị bảo tồn nguồn gen trong thiên nhiên và nghiên cứu khoa học cũng như nuôi làm cảnh ở công viên, vườn thú.

Tình trạng:

Hiện nay ở Việt Nam chỉ còn một quần thể nhỏ dưới 1 cá thể ở vùng rừng Cát Lộc, huyện Cát Tiên tỉnh Lâm Đồng, một phần của Vườn Quốc gia Cát Tiên. Trước đây Tê giác một sừng được ghi nhận ở nhiều nơi Lai Châu (Mường Tè, Mường Lay), Sơn La (Sông Mã), và các vùng thuộc Trung Bộ:, Nam Bộ:: Đắk Lắk (Đắk Nông, Đắk Min, Ea Súp), Đồng Nai (Nam Cát Tiên), Bình Phước (Bù Gia Mập), hiện nay các nơi này hầu như không còn. Quần thể nhỏ ở khu vực rừng Cát Lộc với diện tích gần 20.000ha cũng đang bị sức ép của sự phát triển kinh tế, của dân cư sinh sống trong vùng. Mặt khác vùng Cát Lộc hàng năm thường bị lũ lụt kéo dài cũng ảnh hưởng tới đời sống của chúng.

Phân hạng : CR A1c B2a,b C1+ 2b D

Biện pháp bảo vệ:

Đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam (1992-2000) và Danh lục đỏ IUCN (1996) Nghị Định 18/HĐBT, Nghị định 32/2006/NĐ-CP của Chính phủ cấm săn bắn bẫy bắt và buôn bán Tê giác. Mặt khác cần bảo vệ nghiêm ngặt vùng rừng Cát Lộc, di chuyển các hộ dân đang sống giữa vùng rừng bảo vệ đến nơi định cư mới, xây dựng vùng đệm nâng cao đời sống nhân dân để giảm sức ép lên rừng, đồng thời cũng có thể di chuyển một số cá thể về vườn thú hoặc Vườn quốc gia khác để bảo tồn nguồn gen hữu hiệu hơn.

 

Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 31.

 
 
 
 

Introduction | Forum | Contact us | Latin read & write | Help | Vietnamese

 
© Copyright of Vietnam Forest Creatures
Tel: +844 3895729, 09.44.679.222 -  Email to:
Admin website