|
TỔ KÉN TRÒN
Helicteres isora
L.
Họ: Trôm Sterculiaceae
Bộ:
Bông Malvales
Đặc điểm nhận
dạng:
Cây bụi cao 2 -
4,5m. Lá mọc so le; phiến lá xoan rộng tròn dài, gốc tròn có khi không cân, có
thuỳ hay không, mép có răng nhọn; lá kèm như kim, dễ rụng. Cụm hoa xim 2 - 3 hoa;
đài 1,2cm; cánh hoa xanh rồi hồng hay hồng tía, dài 3 - 4cm; cuống nhị nhuỵ mang
10 nhị quanh bầu. Quả hình trụ tròn, xoắn lại như cuốn thừng, phủ lông sao; hạt
có khía, to 2mm.
Ra hoa tháng 4 -
10, có quả tháng 6 - 11.
Sinh học, sinh
hái:
Cây mọc ở rừng
ven suối tới độ cao 900m ở các khu rừng thường xanh và rừng thứ xinh, cây ưng
bóng, ưa độ ẩm cao.
Phân bố:
Loài của Á châu
nhiệt đới và Nam Trung Quốc. Ở Việt Nam cây mọc ở các tình Ninh Thuận, Bình
Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu.
Công dụng:
Vỏ chứa các sắc
tố diệp lục, phytosterol, một acid hydroxycarboxylic, một chất màu vàng da cam
như curcumin, saponin, đường anilide, phlobotannin và lignin. Rễ có vị nhạt, hơi
đắng, tính bình; có tác dụng phát biểu, lý khí giảm đau. Rễ và vỏ cây đều làm
long đờm, làm dịu và săn da. Quả cũng làm dịu và săn da.
Ở Trung Quốc,
người ta dùng rễ chữa viêm dạ dày mạn tính, loét dạ dày, cung dùng chữa tắc ruột
và cảm mạo phát nhiệt. Ở Ấn Độ, rễ và vỏ cây được dùng trị bệnh về ruột, chống
tiết sữa, trị cảm cúm và dùng ngoài đắp mụn nhọt; vỏ được dùng trị lỵ, tiêu chảy
vì giảm mật; dịch rễ dùng chữa đái đường, đau dạ dày và trị rắn cắn, quả được
dùng trị đau bụng và đầy hơi ở trẻ em. Ở Thái Lan, người ta dùng vỏ thân và rễ
làm thuốc lợi tiêu hoá; còn quả được dùng trị đau dạ dày, đau cơ, viêm gan,
chống đầy hơi, trừ ỉa chảy, lỵ và làm thuốc long đờm.
Tài liệu dẫn:
Cây thuốc Việt nam - Võ Văn Chi - trang 310
|
|