Nhỏ hơn
chó sói lửa, nặng 5
- 8kg, dài thân 600 - 750mm, dài đuôi 200 - 250mm, dài bàn chân sau 135mm, trọng
lượng 6 - 7 kgnền lông màu hung vàng có mút lông đen hoặc hung đen tạo thành màu
hung nâu xám. Vùng vai có nhiều sợi lông đen. Khoảng một phần ba đuôi ngoài xám
đen. Dài đuôi ngắn hơn nửa
dài thân
Sinh học, sinh thái:
Chó sói vàng thường sống ở
các khu rừng ven nương rẫy, có thể gần các trạng trại hay khu dân cư trong rừng.
Sống đơn hay sống đôi, kiếm ăn đêm. Khác Chó sói lửa, Chó sói vàng khá bạo dạn,
chúng có thể vào tận nơi ở trong rừng của con người khi họ đã đi ngủ để kiếm ăn. Thức ăn của chúng là
thú nhỏ,
Chim, bò sát, ếch nhái. Ở Thái Lan theo B.lekagul, 1988 Chó rừng thường
theo Hổ để ăn các mẩu thịt Hổ để lại.
Phân bố:
Loài này có ở các nước châu Âu, châu Á
và châu Phi. Ở
nước ta mới gặp loài thú thuộc
họ
Chó Canidae
này ở Tây Nguyên (Gia Lai, Kontum). Lần đầu tiên đã tìm
thấy loài này ở Đắc Lắc.
Giá trị:
Loài hiếm có giá trị khoa học và nguồn gen. Chó rừng là
loài hiếm từ trước đền nay, là nguồn gen tự nhiên quý.
Do nạn săn bắt, chặt phá rừng, chó
rừng ngày càng trở nên hiếm
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Tuyệt đối cấm săn bắn
chó sói rừng. Tăng cường bảo vệ rừng và xây dựng các khu bảo vệ.