New Page 1
CÀ CUỐNG
Lethocerus indicus
(Lepetetier et
Serville, 1775)
Belostoma indicum
Lepetetier et Serville, 1775
Họ: Chân bơi Belostomatidae
Bộ: Cánh nửa Hemiptera
Đặc điểm nhận dạng:
Cơ thể hình lá, dẹp, mỏng, Đầu pronotum
và scutellum màu vàng nhạt đến nâu sẫm. Pronotum có viền mép trước và
bên, và một số vệt hình đĩa màu vàng đến nâu nhạt. Scutellum có mảng nhạt ở hai
góc đáy, có đường giữa hẹp và vùng đỉnh đen nâu. Mặt bụng sỉn, sternum có
đường viền mép đồng màu. Các nốt đùi có nhiều vệt nâu đen, Đầu nằm giữa
hai mắt, giới hạn bởi hai cạnh bên gần như song song, để phân biệt với loài Lethocerus deyrolley
có đầu hình tam giác rõ rệt. Kích
thước khoảng 70 - 80mm x 20 - 25mm.
Sinh học,
sinh thái:
Cà cuống là loài ăn thịt, hút dịch và máu của
nhiều loài động vật thủy sinh, sâu bọ, cánh cứng, tôm, ốc, nhái và cá nhỏ....
Sinh sản vào các tháng 5 - 8 dương lịch, đẻ thành túi bao quanh thân lúa hoặc
cỏ, mằn sát trên mặt nước. Búi trứng hình trụ, cỡ khoảng 25 - 30mm
x 10mm. Màu
vàng đến trắng nhờ có vài chục đến hàng trăm trứng. Trứng hình bầu dục cỡ khoảng 3,5mm. Thời gian
phát triển của trứng khoảng 10 ngày, từ khi nở đến trưởng thành là 40 ngày. Cà
cuống thuộc nhóm Bọ xít nước phát triển qua biến thái không hoàn toàn. Cà cuống sống ở các ao hồ, thủy vực và ruộng
nước sâu, cây cỏ hay lúa mọc lúp xúp, ở điều kiện thí nghiệm có khi cả ngày mằm
lờ đờ sát mặt nước, chìa ống thở lên trên. Tuy bay không khỏe, nhưng Cà cuống
hay bay lên bờ hoặc từ vực thủy này sang thủy vực khác, nhất là khi chuẩn bị đẻ
trứng.
Cà cuống rất nhạy cảm với kích thích của ánh
sáng, ban đêm thường bay đến những nơi có đèn điện sáng. Con đực thường ẩn nấp
quanh các ổ trứng, để thỉnh thoảng quạt khí cho trứng. Trên mình Cà cuống hay
gặp một số Ve nước Hydrachinidae ký sinh. Muỗi năn thuộc họ Cecidomyidae cũng tấn công trứng của Cà
cuống.
Phân bố:
Việt Nam: ở khắp vùng đồng bằng trên lãnh thổ
Việt Nam, Đã tìm thấy chúng ở Sơn La, Thái Nguyên, Hòa Bình, Hà Nội, Quảng Ninh
(Bãi Cháy), Hải Phòng (Cát Bà), Thái Bình, Thừa Thiên - Huế (Huế),
ây là loài duy nhất thuộc bộ cánh nửa Hemiptera được đưa vào sách đỏ Việt Nam.
Thế giới: miền Viễn đông
liên bang Nga,
và vùng nhiệt đới; từ Ấn Độ
qua Trung Quốc đến Australia.
Giá trị:
Cà cuống là loài côn trùng cánh nửa có kích thước
lớn nhất hiện đang tồn tại (đạt 11 - 12cm), Đây là loài ăn thịt rất khỏe nên
đáng chú ý trong chu trình dinh dưỡng ở một số thủy vực, đặc biệt là ở những nơi ươm cá giống. Từ thời Triệu Đà (207 đến 137 trước công nguyên)
Cà cuống đã được xếp trong những sơn hào, hải vị của người Việt, để cống sang
Trung Quốc với cái tên là con Sâu quế. Tuyến thơm của Cà cuống đực, thịt và
trứng của con cái là món gia vị rất độc đáo ưa chuộng của người Việt Nam, Lào,
Trung Quốc và nhiều nước trong vùng.
Tình trạng:
Do môi trường
thiên nhiên bị phá huỷ, do việc sử dụng nhiều hoá chất trong sản xuất nông
nghiệp và do các quần thể con môi tự nhiên cũng bị suy giảm, nên cà cuống ngày
càng ít gặp và nếu có chỉ là những quần thể đơn lẻ.
Phân hạng:
VU A1 c,d,e C2b,c,e.
Biện pháp bảo vệ:
Xây dựng quy
trình gây nuôi và bảo tồn. Phát triển ở một số vùng ngập nước, như Vân Long,
Ninh Bình (Gia Viễn).
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 31.