TÔM HÙM BÔNG
TÔM HÙM BÔNG
Panulirus ornatus
(Fabricius, 1798)
Palinurus sulcatus
H.M.
Edwards, 1837
Palinurus (Senex) sulcatus
Pfeffer, 1881
Senex
ornatus
Lanchester, 1900.
Họ: Tôm hùm gai Palinuridae
Bộ: Mười chân Decapoda
Đặc
điểm nhận dạng:
Đây là
loài có kích thước cá thể lớn nhất trong các loài Tôm hùm Panulirus, chiều dài
(không kể râu) có thể đạt đến 50cm (4 - 4.5 kg/con), phổ biến 30 - 35cm (1.5 -
1.8 kg/con); vỏ láng có màu xanh nước biển pha lá cây, các gai trên đầu ngực màu
cam trừ gai má màu trắng, giữa vỏ lưng các đốt bụng có 1 dãy ngang màu đen hoặc
nâu đen tương đối rộng và có 1 hay 2 đốm màu kem hay trắng sáng thành cặp tương
ứng ở 2 mặt bên đốt bụng. Phiến gốc râu I có 4 gai xếp thành hình vuông, 2 gai
trước lớn hơn; chân hàm III không có nhánh ngoài; vỏ lưng các đốt bụng láng
không có rãnh hoặc vết tích của rãnh.
Sinh
học, sinh thái:
Sống ở
độ sâu từ 1 mét đến 50 mét, trong đó phổ biến nhất là các vùng nước ven bờ, độ
trong thấp, sâu từ 1 - 8m; thường ẩn trong các hốc đá có chất đáy cát hoặc cát
bùn gần cửa sông hay trên các rạn san hô; không kết đàn, sống riêng lẻ, đến mùa
sinh dục mới bắt cặp. Hàng năm, ở các tỉnh ven biển miền Trung, từ tháng 12 đến
tháng 7 - 8 năm sau, Tôm con (chiều dài vỏ đầu ngực 8 - 25mm) thường tập trung
nhiều ở các ghềnh đá ven bờ và ven các đảo, rộ nhất từ tháng 12 đến tháng 1 - 2
năm sau. Tôm hùm bông là loài có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong các loài
tôm hùm Panulirus, với mật độ nuôi 10 - 15 con/m2 và thức ăn là cá,
giáp xác nhỏ, nhuyển thể, cầu gai thì tôm giống trọng lượng 50 - 100 gam/con có
tốc độ tăng trọng khoảng 15 - 25 gam/con/tháng.
Phân bố:
Trong
nước:
Rất phổ biến ở Việt Nam, tập trung nhất ở các tỉnh ven biển miền Trung.
Thế
giới:
Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương: Nhật Bản, quần đảo Solomon, Papua Niu Ghinê, phía
tây nam, tây, bắc, đông bắc và đông Ôxtrâylia, Tân Đảo và Fiji, Biến Đỏ và Đông
Phi, đông Địa Trung Hải.
Giá trị:
Có giá
trị khoa học, thẩm mỹ.
Tình
trạng:
Trước
năm 1975, tôm cỡ 1.5 - 1.8 kg/con rất phổ biến. Đây là loài cho sản lượng khai
thác cao nhất trong các loài Tôm hùm gai Panulirus, đặc biệt từ năm 1990 tới
nay, do nhu cầu xuất khẩu mạnh, lượng khai thác hàng năm tăng cao, làm số lượng
giảm rõ rệt, có thể tới 20%, trong đó số lượng cá thể trưởng thành biến động cực
mạnh, đồng thời khu vực phân bố cũng bị suy giảm liên tục, ước tính chỉ còn dưới
20,000 km2. Gần đây, nguồn tôm giống ngoài tự nhiên ngày càng bị khai
thác triệt để phục vụ cho nghề nuôi tôm hùm lồng ngày càng phát triển ở các tỉnh
ven biển miền Trung.
Phân hạng:
VU A1d B2a+3d.
Biện pháp bảo vệ:
Đã đưa vào Sách
Đỏ Việt Nam (1992-2000). Cần giảm cường độ khai thác tôm hùm con và khai thác
luân phiên địa điểm. Cần đầu tư nghiên cứu giải quyết các vấn đề sinh thái, sinh
lý, sinh học quần thể tôm từ nhỏ đến thành thục sinh dục nhằm hoàn thiện kỹ
thuật nuôi và khai thác bền vững.
Tài
liệu dẫn:
Sách đỏ
Việt Nam - phần động vật – trang - 55