TÔM HÙM ĐỎ
TÔM HÙM ĐỎ
Panulirus longipes
(A.M.Edwards, 1869)
Palinurus femoristriga
Von Martens, 1872
Palinurus longitarsus
Lenz &
Richters, 1881
Panulirus bispinosus
Borradaile, 1899.
Họ: Tôm hùm gai Palinuridae
Bộ: Mười chân Decapoda
Đặc điểm nhận
dạng:
Tôm cỡ trung
bình, lớn nhất khoảng 25 cm (0,9 - 1 kg/con), con cái tham gia sinh sản lần đầu
có kích thước khoảng 15cm; vỏ láng màu đỏ nâu hay đỏ tím có những chấm tròn nhỏ
hoặc đốm màu trắng hay đỏ cam. Phiến gốc râu I có 2 gai lớn ở phía trước và một
số gai gai nhỏ ở phía sau; chân hàm III có nhánh ngoài; vỏ lưng các đốt bụng
II-IV có 1 rãnh ngang liên tục và gờ trước của rãnh nguyên không chia thùy, rãnh
ngang trên đốt II nối liền với rãnh ở cạnh trước tấm bên cùng đốt; tấm bên không
có răng nhỏ ở cạnh trước.
Sinh học, sinh
thái:
Tôm hùm đỏ thường
sống quanh các đảo, trong các rạn san hô và các vùng phụ cận có độ trong cao và
sóng đập. Chúng thường sống riêng lẻ và hoạt động mạnh về ban đêm. Hàng năm từ
tháng 12 đến tháng 6 năm sau, tôm con (chiều dài vỏ đầu ngực 7-18 mm) thường tập
trung ở các ghềnh đá ven bờ và ven các đảo.
Phân bố:
Trong nước:
Từ Quảng Bình đến Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận.
Thế giới:
Vùng Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương từ Nhật Bản và Pôlynêxia đến Đông Phi.
Giá trị:
Có giá trị
khoa học, thẩm mỹ, nuôi thương phẩm.
Tình trạng:
Trước năm 1975,
tôm cỡ 0.3 - 0.5 kg/con rất phổ biến quanh các đảo, là một trong những đối tượng
tôm hùm có sản lượng khai thác cao. Sau năm 1975, đặc biệt từ năm 1990 tới nay,
do nhu cầu xuất khẩu mạnh, lượng khai thác hàng năm tăng cao, làm số lượng giảm
rõ rệt, có thể tới 50%. Ngoài ra, việc dùng chất nổ để đánh bắt và phá hủy các
rạn san hô đã thu hẹp nơi cư trú, có thể hơn 20%.
Phân hạng:
EN A1c,d B2b+3d.
Biện pháp bảo vệ:
Đã đưa vào Sách
Đỏ Việt Nam (1992-2000). Cần giảm cường độ khai thác, khai khác vào mùa không
sinh sản, nghiêm cấm đánh bắt mìn và phá hủy các rạn san hô.
Tài
liệu dẫn:
Sách đỏ
Việt Nam - phần động vật – trang - 55