Trang chủ | Tổng quan | Mẫu gỗ | Vườn quốc gia | English

Từ điển Latin-Việt

TỰ NHIÊN BÍ ẨN

THÔNG TIN MỚI

TRA CỨU ĐỘNG VẬT RỪNG VIỆT NAM

(Hơn 2350 loài thuộc các họ, bộ, nhóm khác nhau)
Cập nhật 20/11/2023

 

 

Tên Việt Nam: Ếch cây ma cà rồng
Tên Latin: Rhacophorus vampyrus
Họ: Chẫu cây Rhacophoridae
Bộ: Không đuôi Anura 
Lớp (nhóm): Lưỡng cư  
       
 Hình: Phạm Thế Cường  
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
    ẾCH CÂY MA CÀ RỒNG

ẾCH CÂY MA CÀ RỒNG

Rhacophorus vampyrus Rowley, Le, Thi, Stuart & Hoang, 2010

Họ: Chẫu cây Rhacophoridae

Bộ: Không đuôi Anura

Đặc điểm nhận dạng:

Loài lưỡng cư có kích thước nhỏ, lưng có màu nâu nhạt đến đỏ gạch; họng, ngực và bụng màu trắng; hai bên sườn, mặt trước và sau đùi màu đen; có màng da màu xám đến đen giữa các ngón tay và ngón chân; màng ngón tay tiêu giảm dần. Cơ thể dẹt, chiều dài đầu bằng 90% chiều rộng đầu; mũi ngắn nhìn từ phía lưng và phía nghiêng, hơi nhô ra phía dưới góc hàm dưới, có chấm sáng màu trên đầu mũi nhìn từ phía bụng; vùng trước mắt dốc, hơi lõm vào; miệng rộng. Vùng giữa 2 mắt hơi lồi, lỗ mũi hình trái xoan hơi nhô lên, ko có nắp da và gần với đầu mũi hơn mắt; đồng tử nằm ngang; trống tai dễ nhận thấy bên ngoài, vành trống tai hơi cao gần với da vùng thái dương, bằng 41% đường kính mắt; da không hoá xương ở phần trán; răng vòm miệng xếp thành từng nhóm không đối xứng và tách rời nhau.

Lưỡi đính vào phía trước hàm dưới, phía sau lưỡi có các khía sâu hình chữ V; các mấu lồi giống răng ở hàm dưới không phát triển; có một đôi túi kêu hình trứng ở mặt đáy hàm; một đôi túi kêu ở ngoài nằm phía dưới họng. Các nếp da gần trống tai nhỏ và kéo dài đến tuyến nách. Chân trước khá khoẻ, chiều dài tương đối của các ngón tay như sau: ngón I < II < IV < III; đầu các ngón tay có các đĩa với các rãnh bám tròn ở mép, đĩa lớn hơn so với bề rộng của ngón tay. Da lưng trơn láng, giữa đùi và bụng có các hạt thô, ngực và họng trơn láng. Da mềm ở 2 bên họng phía trên 2 túi kêu. Mép ngoài cẳng tay và chân có các gờ da.

Sinh học, sinh thái:

Thích nghi với đời sống trên cây, có thể bay lượn nhờ những màng bơi giữa các ngón chân. Loài đẻ trứng và phôi phát triển thành nòng nọc cũng sống trên cây. Mùa sinh sản của chúng là từ tháng bảy đến tháng năm. Những con trưởng thành sẽ tiết tổ bọt ở những hốc cây nhỏ, cách xa suối hoặc vũng nước, thường cách mặt đất 30-120 cm trở lên. Mỗi ổ thường có hơn 250 quả trứng. Độ dài của chu kỳ biến thái chưa được nghiên cứu kỹ nên chưa xác định được con đực hay con cái canh bảo vệ trứng hay cả hai. Trong tổ có chứa nòng nọc. Có trên 10 cá thể nòng nọc được quan sát ở mỗi hốc cây. Vẫn chưa biết được có phải con đực gọi bạn tình hay không, nhưng theo các nhà nghiên cứu thì một con đực đã được nhìn thấy ở vị trí một tổ trong nhiều đêm. Phương thức ghép đôi cõng thụ thai vẫn chưa được biết rõ. Tập tính ăn ở cá thể trưởng thành vẫn chưa được nghiên cứu. Tuy nhiên một con cái đẻ trứng xong, nòng nọc được hình thành trong đó và trong ruột của nòng nọc có các thành phần của trứng. Chứng tỏ trong suốt thời kỳ phát triển, nòng nọc đã ăn các chất có trong trứng. Đây là loài duy nhất trong chi Rhacophorus mà nòng nọc và phôi thai tiền nòng nọc ăn trứng và con cái đẻ ra “trứng dưỡng” vào trong tổ để nuôi nòng nọc. Nòng nọc không có hiện tượng ăn các thực phẩm khác. Nòng nọc của Rhacophorus vampyrus dài 32.8 mm ở giai đoạn 35 của chu kỳ phát triển. Cơ thể thon dài, thân hóp, đuôi dài gấp ba lần thân. Vây đuôi cao bằng thân và chót nhọn. Mắt nhỏ và mũi nằm ở lưng. Chúng có mang xoắn ốc mà chỉ thấy ở mặt bụng và chúng có ống huyệt dài, hẹp, chính giữa. Chúng có đĩa miệng không viền môi, môi trên tiêu giảm chỉ còn lại cấu trúc dạng nhú ở mỗi bên. Bao hàm dưới xuất hiện một vài khía răng cưa dạng cong móc lớn mà chỉa về phía sau. Một bao hàm dưới tiêu biến và hai cái móc lớn hướng ra trước, ke-ra-tin hoá hình thành “răng nanh”. Hai “răng nanh” này được bao quanh bởi hai nhú mập ở mép của hàm tiêu giảm thấp hơn.

Hiện tại loài này được tìm thấy ở các rừng thường xanh độ cao 1.470 - 2.004m, trong khu rừng thường xanh thuộc khu bảo tồn quốc gia Bidup - Núi Bà. Tên loài được đặt "ma cà rồng" do trong giai đoạn nòng nọc, miệng chúng có hai chiếc "răng nanh" màu đen thò ra trông giống hình tượng con quỷ hút máu huyền thoại văn hóa phương Tây

Phân bố:

Loài này phân bố ở cao nguyên Langbiang thuộc miền Trung Việt Nam và Vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà Lâm Đồng.

 

Mô tả loài: Nguyễn Quảng Trường, Phạm thế Cường, Phùng Mỹ Trung - WebAdmin.

 

 

 

 

Bản đồ phân bố của loài:

 

Ếch cây ma cà rồng

 

 

 
 

 


Giới thiệu | Tra cứu | Danh pháp | Diễn đàn | Liên hệ | Văn Bản | Trợ giúp | SVR Mobile

Mọi chi tiết xin liên hệ Admin website Sinh vật rừng Việt Nam
© Ghi rõ nguồn '
Sinh vật rừng Việt Nam' khi bạn phát hành lại thông tin từ Website này