SAN HÔ TRÚC
SAN HÔ TRÚC
Isis hippuris
Linnaeus, 1758
Họ: San hô trúc Isididae
Bộ: San hô sừng Gorgonacea
Đặc điểm nhận
dạng:
Tập đoàn dạng
cành cây hoặc bụi cây, phân cành và nhánh nhiều lần kiểu lưỡng phân, trông có
dáng bụi trúc, đầu các nhánh hơi phình to. Vỏ rất dày, nhất là ở đầu nhánh. Trâm
xương trong vỏ dạng hình sao, dài 0,2mm có các nốt nhỏ, một số dạng không quy
luật đường kính 0,1mm. Trục mập ở gốc và các cành chính, nhỏ dần ở các cành bên
và mảnh ở các nhánh ngọn. Trục phân đốt, các đốt màu đen bằng chất sừng thường
nhỏ và ngắn xen với các đốt màu trắng bằng canxi to và dài hơn. Trên trục có các
gân chạy dọc, gân nổi rất rõ trên các đốt màu trắng. Mẫu sống màu nâu nhạt.
Sinh học, sinh
thái:
Phân bố trên các
rạn san hô ven các đảo xa lục địa, nơi có nước rất trong, độ mặn cao và ổn định
(>33‰), ít sóng. Thường gặp trong các lagun ở quần đảo Trường Sa, độ sâu từ 1 -
20m. ở vùng ít sóng, dòng chảy yếu san hô có kích thước lớn (tập đoàn cao tới 1
mét), vùng có sóng và dòng chảy mạnh san hô kích thước nhỏ (20 - 30cm).
Phân bố:
Trong nước:
Quần đảo Trường Sa.
Thế giới: Các đảo thuộc
trung tâm Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương.
Giá trị:
Hàng mỹ nghệ.
Tình trạng:
Ở Việt Nam loài
này mới chỉ thấy có ở quần đảo Trường Sa, diện tích phân bố hẹp. Trước năm 1990,
số lượng còn khá nhiều, rất dễ tìm gặp, nhưng gần đây do khai thác nhiều làm đồ
lưu niệm và đưa vào bờ làm hàng mỹ nghệ nên số lượng bị giảm sút nghiêm trọng,
đặc biệt ở vùng nước nông.
Phân hạng:
VU A1a,d C2a.
Biện pháp bảo vệ:
Đã được đưa vào
Sách Đỏ Việt Nam (1992 - 2000). Trước mắt cần cấm khai thác một thời gian khoảng
5 năm để phục hồi nguồn lợi. Cần đầu tư nghiên cứu sinh học làm cơ sở đề xuất
việc khai thác hợp lý, phát triển bền vững nguồn lợi.
Tài
liệu dẫn:
Sách đỏ
Việt Nam - phần động vật – trang - 55