New Page 1
SƠN ĐẬU CĂN
Sophora subprostrata Chun et
T. Chen
Họ: Đậu Fabaceae
Bộ: Đậu Fabales
Mô tả:
Cây bụi nhỏ, cao 1 - 2 m,
phân cành, có lông, lá kép lông chim lẻ, dài 10 - 20cm, mỗi bên có 8 - 11 lá
chét, cuống ngắn 1 - 1,5mm, có lông. Phiến lá chét hình trứng hoặc hình trứng
tròn dài, nhọn đầu, dài 1,5 - 2,5cm, rộng 1 - 1,2cm. Lá chét cối cùng tương đối
lớn. Mặt trên có lông thưa, mặt dưới phủ nhiều lông màu nâu xám. Cụm hoa hình
bông giả ở ngọn và đầu cành, dài tới 15cm. Đài hình chuông, ít lông. Cánh hoa
màu vàng trắng. Bầu có lông, quả đậu, dài 2 - 5cm, chứa 3 - 5 hạt.
Sinh học:
Mùa hoa quả tháng 4 - 7. Nếu
cây không bị chặt phá thì hàng năm có thể ra hoa kết trái đều. Cây mọc chồi vào
mùa xuân. Hoặc khi bị chặt phá, phần còn lại vẫn có khả năng tái sinh tốt.
Nơi sống và sinh thái:
Trong rừng cây bụi, núi đá
vôi, độ cao khoảng 800m trở lên. Cây ưa sáng, ưa ẩm song cũng có khả năng hơi
chịu bóng (lúc cây còn nhỏ hoặc cây tái sinh chồi) và chịu hạt. Cây sinh trưởng
manh vào mùa xuân hè.
Phân bố:
Việt Nam: Cao Bằng (Hạ Lạng,
Trùng Khánh), Hà Giang (Mèo Vạc).
Thế giới: Trung Quốc (Quảng
Tây, Qúy Châu).
Giá trị:
Nguồn gen qúy, hiếm ở Việt
Nam. Rễ dùng làm thuốc chữa bệnh kiết lỵ, ho, giải độc (ở Trung Quốc dùng nhiều
với tên vị thuốc khác là quảng đậu căn chữa đau họng, sưng họng, nhiệt kiết, táo
bón. Dùng ngoài chữa răn cắn và nhọt độc).
Tình trạng:
Mức độ bị đe dọa: Bậc T.
Thuộc diện cây qúy hiếm, phân bố hẹp, trữ lượng không đáng kể, lại thường bị
chặt phá bừa bãi.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Khoanh bảo vệ 2 điểm có sơn
đậu căn ở Trùng Khánh và Mèo Vạc. Trồng giữa tại trại thuốc Tam Đảo.
Tài
liệu dẫn:
Sách
đỏ Việt Nam - trang 257.