Lưng
màu xám xanh đến đỏ tía nhạt. Chân, đuôi màu cam. Trên cổ có những đốm vàng dạng
lưới và các sọc đen dày. Hai bên sườn có màu cam với 3
- 4 vạch mảnh màu vàng
tươi. Con đực trưởng thành có SVL (Chiều
dài mút mõm đến lỗ huyệt) nhỏ nhất đạt 75,5 mm, con cái trưởng thành có
SVL nhỏ nhất đạt 72,2 mm. 7 hoặc 8 vảy môi trên, 5
- 7 vảy môi dưới. Vảy cằm rất
lớn, tiếp theo là 3 vảy sau cằm kéo dài đến vảy môi dưới thứ tư hoặc thứ năm.
Nốt sần ở chân trước và trên lưng đều hóa sừng. Vảy bụng,
vảy dưới ống chân, vảy
dưới đuôi láng. 32 - 48 nốt sần dọc xương sống ở phần thân giữa chân trước và chân
sau. Nốt sần ở hai bên sườn không sắp xếp theo hàng. Nốt sần trên đuôi chạy dọc
xương sống. 1 hoặc 2 nốt sần sau huyệt. Không có vảy trước huyệt nở rộng. Vảy
đùi rất lớn. Vảy dưới ống chân lớn, hình tấm. Vảy dưới bàn của ngón chân trước
thứ nhất nở rộng. 25 - 28 nếp da dưới ngón chân sau thứ tư.
Sinh
học, sinh thái:
Loài
bò sát kiếm ăn đêm
rất đẹp ở Việt Nam, nhưng vẫn có thể gặp ban ngày và thường sống ở các tảng đá
mẹ thuộc rừng thường xanh trên đảo với độ cao từ 5 đến 300m so với mặt biển.
Thức ăn là những loài côn trùng sống trong khu vực. Đẻ 2 trứng ở các bọng
cây, kẽ
nứt vách đá vào đầu mùa mưa hằng năm. Ban
đêm khi chiếu đèn vào phần bảy gáy và khu vực vảy gần tai, các vảy này phản
quang rất đẹp.
Phân
bố
Loài
đặc hữu của Việt Nam, mới phát hiện ở Đảo Hòn Khoai thuộc tỉnh Kiên Giang
năm 2010 bởi nhà nghiên cứu bò sát Ngô Văn Trí.