ỐC SỨ TRẮNG NHỎ
ỐC SỨ TRẮNG NHỎ
Ovula costellata
(Lamarck, 1810)
Ovula imperialis
Dillwyn, 1817
Ovula angulosa
Schumacher et Wagner, 1829
Ovula tortillis
Reeve,1865.
Họ: Ốc sứ Cypraeidae
Bộ: Chân bụng trung Mesogastropoda
Đặc điểm nhận
dạng:
Vỏ hình trứng dài
khoảng 70mm. Mặt ngoài vỏ màu trắng với men bóng, đường tăng trưởng nổi lên cao.
Mặt trong vỏ màu hồng sẫm khác với ốc sứ trắng (Ovula ovum) có mặt trong
vỏ màu cà phê. Môi ngoài có khoảng 25 răng, răng nổi không rõ ràng và không đều
nhau. Môi trong không có răng.
Sinh học, sinh
thái:
Sống ở
vùng triều hay vùng dưới triều bám trên các rạn san hô hoặc rạn đá. Thường
sống ở xa vùng
cửa sông nước trong, độ sâu 1 - 5m, hay sống chung với ốc sứ trắng.
Phân bố:
Trong nước:
Vịnh
Văn Phong - Bến Gỏi.
Thế giới: Từ Đông Châu
Phi đến đảo Tonga.
Giá trị:
Không có ý nghĩa
kinh tế, có giá trị khoa học, mỹ nghệ và sưu tập.
Tình trạng:
Đã được dưa vào
Sách Đỏ (1992). Là loài có giá trị làm đồ mỹ nghệ. Bị săn bắt mạnh, mức độ suy
giảm khoảng 20 %. Mới chỉ tìm thấy ở Khánh Hoà, phân bố hẹp. Số lượng có rất ít,
dễ bị tuyệt chủng.
Phân hạng:
VU A1d C1.
Biện pháp bảo vệ:
Cần bảo vệ chung
cả
hệ sinh thái tự nhiên. Cấm nổ mìn và khai thác san hô, nên cấm khai thác
trong một số năm.
Tài
liệu dẫn:
Sách đỏ
Việt Nam - phần động vật – trang - 55