TRAI ĐIỆP
TRAI ĐIỆP
Sinohyriopsis cumingii
(Lea, 1852)
Hyriopsis
cumingii
Haas, 1910
Hyriopsis goliath
Rolle, 1904.
Họ: Trai cánh Unionidae
Bộ: Trai Unionoida
Đặc điểm nhận
dạng:
Trai cỡ lớn, cơ
thể dài tới 25cm, vỏ dày, mặt ngoài đen nâu, mặt trong có lớp xà cừ màu trắng
hồng hoặc da đồng, phần cánh và đuôi có ánh vàng. Vùng đỉnh vỏ thấp, có nhiều
nếp nhăn đồng tâm. Cánh mỏng, rất phát triển về phía lưng. Đường
gờ bên vùng lưng sau nổi rõ. Con non, có vỏ mỏng, màu xanh vàng, với nhiều
đường phóng xạ màu xanh lục.
Sinh học, sinh
thái:
Sống ở sông vùng
trung du và đồng bằng miền bắc Việt Nam.
Sinh sản vào mùa xuân, đầu hạ, con cái trưởng thành chứa khoảng 500 - 10.000
trứng. Trai con hình thành từ ấu trùng trong khoảng 15 - 20 ngày, trôi nổi trong
nước rồi lắng xuống đáy bùn phát triển thành trai lớn. Ăn kiểu lọc nước qua
xiphông, giữ lại chất vẩn và sinh vật trong nước. Mùa lạnh di chuyển xuống vùng
nước sâu. Trai điệp sống phổ biến ở đáy bùn cát sông, hồ vùng đồng bằng miền Bắc
Việt Nam. Thích ứng được với điều kiện thời tiết mùa hạ và mùa đông.
Phân bố:
Trong nước:
Bắc
Giang, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội, Ninh Bình.
Thế giới: Trung Quốc
(Hoa Trung và Hoa Nam).
Giá trị:
Có giá trị
nghiên cứu khoa học về các loài thân mềm trong hệ thống sông hồ ở Việt Nam. Vỏ trai là nguyên liệu để
chế biến bột giấy điệp (dùng trong hội hoạ), xà cừ đẹp dùng trong nghề khảm
trai, làm khuy trai. Là đối tượng nuôi để cấy ngọc trai trong thuỷ vực nước
ngọt.
Tình trạng:
Trước năm 1975,
gặp phổ biến trong các sông vùng đồng bằng Bắc Bộ; mật độ khoảng 2 - 3 con/m2
nền đáy. Hàng năm, riêng ở vùng Bắc Giang (sông Thương), Hà Tây, Hà Nam, Ninh
Bình (sông Đáy) đã
khai thác, sử dụng tới 25 - 30 tấn vỏ trai điệp. Sau năm 1975, đặc biệt từ
1990 tới nay, do nghề thủ công sử dụng vỏ trai phát triển mạnh, lượng khai thác
hàng năm tăng cao, làm giảm số lượng rõ rệt, có thể tới 20%. Việc nuôi trai để
cấy ngọc chỉ mới bắt đầu từ 1995 và đã có một số kết quả. Diện phân bố Trai điệp
trước 1975 mở rộng trên phạm vi toàn vùng đồng bằng Bắc Bộ, tới 15.000km2.
Hiện nay, do khai thác mạnh và tình trạng ô nhiễm các sông vùng đồng bằng và
trung du, diện tích thu hẹp chỉ còn khoảng 2.000km2, số lượng rất
biến động theo từng năm phụ thuộc vào khai thác.
Phân hạng:
VU
B2a,b,e+3a,d.
Biện pháp bảo vệ:
Đã được đưa vào
Sách Đỏ Việt Nam và danh sách các loài cần được bảo vệ của ngành Thuỷ sản từ
trước năm 1996. Kiến nghị: cần giảm cường độ khai thác, khai thác vào mùa không
sinh sản, khai thác luân phiên địa điểm, chống ô nhiễm nước sông các khu vực cư
trú quan trọng của loài. Nghiên cứu bổ sung số lượng bằng biện pháp nhân tạo...
Tài
liệu dẫn:
Sách đỏ
Việt Nam - phần động vật – trang - 55