KHƯỚU NGỰC ĐỐM
KHƯỚU NGỰC ĐỐM
Garrulax merulinus
Blyth, 1851
Garrulax merulina
annamensis
(Robinson và Kloss, 1919)
Garrulax merulina
obscurus
Delacour và Jabuille, 1931.
Họ: Khướu Timaliidae
Bộ: Sẻ Passeriformes
Đặc điểm nhận
dạng:
Chim có bộ lông
màu nâu. Ngực có các vệt hay đốm hình bầu dục hẹp, màu đen.
Theo
Robson (2000), Khướu ngực đốm phân bố ở Đông Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam thuộc
phân loài
Garrulax merulina
obscurus, có các đốm màu đen to ở ngực và họng, lông mày không có màu vàng
cam hung, nhìn thấy rõ ràng, còn phân loài
Garrulax merulina
annamensis (Delacour et al. 1931; Võ Quý, 1981), hay được coi là một
loài đặc hữu
Garrulax merulina
annamensis (Robson, 2000), phân bố ở vùng Nam Trung Bộ Việt Nam, có họng màu
đen, các đốm đen chỉ có ở ngực và nằm trên nền lông có màu vàng cam hung kéo dài
từ ngực đến dưới đuôi. Lông mày cùng màu nhưng nhìn nhạt hơn.
Sinh
học, sinh thái:
Sống ở
rừng thường xanh cây lá rộng, rừng thứ sinh, rừng tre vầu và ở cửa rừng.
Kiếm ăn gần mặt
đất, chỗ ít rậm rạp. Có thể gặp lên đến độ cao 1.500 - 2.000m., đi lẻ hay đôi.
Có tiếng hót rất véo von. Làm tổ ở bụi rậm, gần mặt đất. Thời gian làm tổ khoảng
từ tháng 4 - 7. Đẻ 2 - 3 trứng.
Phân bố:
Trong nước: Tây
Bắc, Bắc và Nam Trung Bộ: Lai Châu, Lào Cai, Nghệ An, Đắk Lắk và Lâm Đồng.
Thế giới: Ấn Độ,
Mianma , Thái Lan, Trung Quốc, Lào.
Giá trị:
Nguồn gen quý.
Hót hay, bị bắt để nuôi làm chim cảnh.
Tình trạng:
Loài khướu có
tiếng hót hay, rất dễ bị đánh bắt để nuôi làm cảnh và buôn bán. Vùng phân bố
phân tán, mặc dầu có thể tìm thấy ở một số khu vực khác nhau, nhưng số lượng
không nhiều, thường chỉ gặp 1-2 con, cần được quan tâm bảo vệ.
Phân hạng:
LR nt
Biện pháp bảo vệ:
Nghị định 48/CP
của Chính phủ ngày 22/04/2002, Nhóm IIB. Các quần thể phân tán và được ghi nhận
ở một số khu bảo tồn khác nhau trong các vùng phân bố của Việt Nam.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 292.