NIỆC MỎ VẰN
NIỆC MỎ VẰN
Aceros undulatus
(Shaw, 1811)
Aceros undulatus
ticehursti
Deignan, 1914.
Họ: Hồng hoàng Bucerotidae
Bộ: Sả Coraciiformes
Đặc điểm nhận
dạng:
Con đực trưởng
thành mỏ sừng to, trên sống mỏ và gốc mỏ có gờ gợn sóng. Đỉnh đầu mầu nâu tím ở
con đực và đen ở con cái. Hai bên đầu và cổ trắng. Họng có túi da mầu vàng cam
tươi và có vằn ngang đen ở con đực, xanh ánh vàng ở con cái. Phần còn lại của bộ
lông mầu đen, trừ đuôi có mầu trắng. Con đực mỏ trắng ngà, gốc mỏ có màu đỏ, mắt
vàng cam hay đỏ, da quanh mắt màu hồng hay vàng đỏ với vằn ngang xanh hay lục.
Con cái mắt nâu vùng da quanh mắt mầu hồng thẫm. Đực và cái chân đều màu xám đen.
Chim non mới mỏ không có gờ và kích thước bé hơn.
Sinh học, sinh
thái:
Chưa rõ. Kết quả
nghiên cứu ở Thái Lan cho thấy loài này sinh sản vào tháng 2 - 5, kéo dài tới
120 ngày. Thời gian ấp 40 - 45 ngày và thường chỉ thấy một con. Thức ăn chủ yếu
là các loại quả cây (loại quả thịt) trong rừng, ngoài ra ăn thêm côn trùng chiếm
khoảng 5% số lượng thức ăn.
Niệc mỏ vằn sống
và làm tổ, kiếm ăn ở rừng nguyên, thứ sinh thường xanh ẩm ít bị khai thác ở các
thung lũng, vùng đồi núi cao 100-1500m và cả rừng ngập mặn. ở Thái Lan chúng
kiếm ăn và làm tổ ở tầng cao của rừng từ 20-28m và vùng hoạt động trong mùa sinh
sản rộng khoảng 12km2. Ngoài mùa sinh sản vùng hoạt động kiếm ăn hẹp
hơn có bán kính rộng 10km2 và có thể gặp được đàn đông hàng trăm con.
Một số khu vực ở miền Trung và Nam Bộ nước ta thường chỉ gặp đàn nhỏ 3 - 5 con.
Tuy nhiên, đôi khi có thể gặp đàn lớn đến gần hai chục con.
Phân bố:
Trong nước: Miền
Trung và Nam Bộ Việt Nam.
Thế giới: Ấn Độ,
Butan, Trung Quốc và Đông nam Á.
Giá trị:
Quý hiếm, có giá
trị khoa học và hình dáng đẹp, làm cảnh, thương mại, thực phẩm.
Tình trạng:
Số lượng cá thể
ít vì nơi sống bị mất dần, vùng phân bố bị thu hẹp nhanh và bị săn bắt bừa bãi,
hiện nay hiếm.
Phân
hạng:
VU A1c,d D1
Biện
pháp bảo vệ:
Đã được
đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (1992-2000), tuy có mặt ở nhiều khu bảo tồn thiên nhiên
và Vườn quốc gia ở vùng Tây Bắc, miền Trung và Nam Bộ nước ta nhưng việc bảo vệ
chưa có hiệu quả cao và việc hồi phục số lượng rất chậm. Cần nghiêm cấm săn bắt,
đồng thời đẩy mạnh việc bảo vệ tốt các quần thể còn lại cùng với nơi ở và nơi
kiếm ăn của chúng.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 285.