New Page 1
GÀ RỪNG
Gallus gallus
Linnaeus 1758
Họ: Gà Galliformes
Bộ: Trĩ Phasianidae
Đặc điểm nhận biết:
Chim lớn, cánh dài 200-250mm, nặng 1-1,5kg. Chim đực có lông
đầu, cổ màu đỏ da cam, lưng và cánh đỏ thẫm, ngực bụng và đuôi đen. Chim mái nhỏ
thua chim đực và toàn thân màu nâu xỉn. Mắt nâu hay vàng cam. Mỏ nâu sừng hoặc
xám chì. Mỏ thịt đỏ. Chân xám nhạt.
Sinh thái và tập tính:
Gà rừng sông định cư và ở trong nhiều kiểu rừng. Sinh cảnh
thích hợp là rừng thứ sinh gần nương rẫy hay rừng gỗ pha giang, nứa. Sống đàn
hoạt động vào 2 thời điểm trong ngày: sáng sớm và xế chiều. Buổi tối gà tìm đến
những cây cao dưới 5m có tán lớn để ngủ. Gà thích ngủ trong các bụi giang, nứa,
có nhiều cây đổ ngang.
Gà rừng ăn các loại qủa mềm (đa, si..), hạt cỏ dại, cây lương
thực, thóc ngô...các loài động vật nhỏ, mối, kiến giun đất, châu chấu, nhái...
Mùa sinh sản của gà rừng bắt đầu vào tháng 3. Vào thời kỳ này
gà trống gáy nhiều lúc sáng sớm và hoàng hôn. Một con đực đi với nhiều con mái.
Tổ làm đơn giản, trong lùm cây bụi, Mỗi lứa đẻ 5 -10 trứng, ấp 21 ngày. Con non
đẻ ra khoẻ.
Phân bố:
Nam Trung Quốc, Bắc Mianma, Lào, Campuchia, Việt Nam.
Việt Nam gà rừng có khắp các tỉnh miền núi trung du.
Giá trị sử dụng.
Gà rừng là chim săn bắn và cho thịt.
Tình trạng:
Số lượng gà rừng ở nước ta còn tương đối nhiều. Có thể khai
thác để cung cấp thêm cho con người.
Tài liệu dẫn: Động vật rừng - Phạm Nhật, Đỗ quang Huy - trang 88.