New Page 1
NHôNG CÁT gutta
Leiolepis
guttata
Curier, 1829
Họ: Nhông Agamidae
Bộ: Có vảy Squamata
Đặc điểm nhận dạng:
Thân dẹp theo hướng lưng bụng, không có mào lưng, không có gai trên đầu. Vảy
lưng nhỏ, vảy ở mặt bụng lớn hơn ở đùi về mặt bụng có một dãy lỗ (lỗ đùi), gồm
20 - 23 lỗ. Mặt lưng có những chấm màu ô liu hình lục giác,
đồng thời có 4 sọc màu vàng nhạt chạy song song với nhau từ phần trước ra phần
sau cơ thể. Chiều dài thân trung bình 120,8mm, đuôi trung bình 290mm, khối
lượng trung bình 56g.
Sinh học, sinh thái:
Kiếm ăn ban ngày, thức ăn chính là hoa và lá cây Tràng quả sục sặc
(Papillionaceae), Cúc (Asteraceae), Cà phê (Rutaceae). Ngoài ra chúng cũng ăn
các loài côn trùng như châu
chấu, cào cào, dế, ong, kiến, bọ rùa, bổ củi. Thức ăn chính của cá thể non cũng
giống như cá thể trưởng thành gồm tràng quả, châu chấu, cào cào, dế, ong, kiến.
Chưa phát hiện được cá thể đực, cá thể cái đẻ trứng từ tháng 4 - 7 hàng năm.
Sống trong hang ở cồn cát chạy dọc theo bờ biển từ 50 - 100m hoặc ở
các vùng gò đồi và nương rẫy ở đồng bằng trên nền đất cát hoặc pha cát. Hệ thực
vật gồm một số cây đặc trưng như Sim, Mua, cỏ lá, cỏ ống. Chúng tự
đào hang để ở. Hang có dạng ngoằn ngoèo, gấp khúc nhiều doạn. ngoài cửa hang
chính còn có cửa hang phụ được lấp kín hoặc ngụy trang khéo léo là cửa thoát khi
gặp nguy hiểm.
Phân bố:
Việt
Nam:
Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng, Khánh Hòa (Nha Trang).
Thế giới: Ấn Độ, Xrilanca, Mianma, nam Trung Quốc (kể cả đảo Hải Nam), Malaysia,
Indonesia.
Giá trị:
Có giá trị khoa học và thẩm mỹ,
có thể nuôi trong các khu vực vườn thú để giúp các học sinh, sinh viên nghiên
cứu về hình thái, tập tính của chúng.
Tình trạng:
Số lượng nhông cát giảm sút
nhiều do bị săn bắt làm thuốc, thực phẩm. Mức độ đe dọa: bậc T.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Cấm săn bắt,
bào vệ sinh cành sống của chúng trong tự nhiên và cần tổ chức
nuôi.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt
Nam
trang 194.