Trang chủ | Tổng quan | Mẫu gỗ | Vườn quốc gia | English

Từ điển Latin-Việt

TỰ NHIÊN BÍ ẨN

THÔNG TIN MỚI

TRA CỨU VÀ NHẬN BIẾT HỌ THỰC VẬT

 
Tra cứu họ thực vật:
 

Bứa Clusiaceae
 

Cây gỗ hoặc cây bụi. Đặc trưng bởi cây có nhựa mủ vàng, các cành thường nằm ngang. Lá đơn, mọc đối, thường có lông hình sao, không có lá kèm. Hoa thường đơn tính. Đài và tràng gồm 2-6 mảnh, xếp vòng hoặc lá đài xếp xoắn. Nhị thường nhiều, rời hoặc hợp thành bó đối diện với cánh hoa. Bộ nhụy thường gồm 3-5 lá noãn hợp thành bầu thượng. Hạt to, thường có tử do cuống noãn (funiculus) hoặc do lỗ noãn (micropilus) tạo thành.

Có 40 chi 550 loài, ở các nước nhiệt đới ẩm. Ở Việt Nam có 5 chi: Calophyllum, Garcinia, Kayea, Mesua, Ochrocarpus ; khoảng 45 loài.

Solanaceae
 

Cây cỏ, bụi hoặc gỗ nhỏ. Lá đơn, mọc cách, không có lá kèm. Hoa lưỡng tính, thường mẫu 5, đều hoặc hơi không đều; tràng có thùy thường xếp nếp, đôi khi vặn xoắn hay ít khi xếp van; nhị thường đẳng số, dính trên tràng và xen kẽ với thùy của tràng; bộ nhụy gồm 2 lá noãn hợp thành bầu thượng; bầu thường 2 ô (hoặc do có vách giả mà thành 3-5 ô), noãn nhiều, đính trên giá noãn trụï giữa; quả mọng hoãc quả nang cắt vách (septicide). Có nhiều điểm chung với Covolvulaceae, nhưng ở đây không có nhựa mủ, noãn nhiều với lỗ noãn hướng xuống (apotrop) và lá mầm không xếp nếp. Có 85 chi 2300 loài, ở nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới, chủ yếu ở Nam Mỹ. Ở Việt Nam có 16 chi: Atrichodendron, Browallia, Brugmasia, Brunfelsia, Capsicum ; gần 50 loài.

Cám Chrysobalanaceae
 

Cây gỗ. Lá đơn, mọc cách. Rất gần với Rosaceae, nhưng ở đây có hoa hơi không đều, bao hoa mẫu 5 (K5C5-O), bộ nhụy thường là đơn số giả và đặc biệt có vòi lệch xuất phát từ gốc bầu.

Có 13 chi 530 loài, chủ yếu ở nhiệt đới châu Mỹ, ít ở nhiệt đới châu Phi, Madagasca, ở Đông nam Á, Tây nam Australia. Ở Việt Nam có 2 chi: Chrysobalanus, Parinari (Parinarium ) và 2 loài.

Cam Rutaceae
 

Cây gỗ hoặc cây bụi. Lá đơn hoặc kép (có khi chỉ có 1 lá chét), mọc cách hay mọc đối. Rất gần với Anacardiaceae và Simaroubaceae. Rất đặc trưng bởi lá, vỏ cành và vỏ quả thưông có tinh dầu thơm. Hoa thường lưỡng tính, mẫu 5(4,3,2); bộ nhị phần lớn obdiplostemon, ít khi diplostemon hoặc nhị đồng số và đối diện với lá đài; có triền trong nhị; bộ nhụy thường gồm 4-5 (3-1 hoặc nhiều) lá noãn rời hoặc chỉ hơi dính ở gốc hoặc ở vòi. Hạt đôi khi có cơm.

Có 150 1600, phân bố rộng ở nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới, nhất là Nam Phi và Australia. Ở Việt Nam có gần 30 chi: Acronychia, Aegle. Atalantia, Boenninghausenia, Citrus, Clausena, Euodia, Foroniella ... và khoảng 110 loài.

Cẩm chướng Caryophyllaceae
Dianthus alpinus
 

Cây thân cỏ một hay nhiều năm. Đặc trưng bởi lá đơn mọc đối, hoa thành xim lưỡng phân; cánh hoa (nếu có) khía răng hoặc xẻ thùy và bởi lối đính noãn trụ giữa. Quả thường là nang mở bằng mảnh vỏ hay nứt răng ở đỉnh hoặc quả hạch khô. Hạt thường có phôi cong và có ngoại nhũ bột. 80 chi 2100 loài, chủ yếu ở ôn đới bán cầu Bắc, tập trung nhiều ở Địa trung Hải. Ở Việt Nam có trên 10 chi: Dianthus, Brachystcmma, Cerastium, Drymaria, Lychnis,Myosoton, Polycalpaea, Sagina, Stellaria. . . khoảng 25 loài.

Cau Arecaceae
 

Rất đặc trưng bởi cây có thân hóa gỗ, thẳng, hình trụ và không phân cành, với lá tụ lại thành tán ở đỉnh hoặc là dây leo với lá phân đều trên thân và có nhiều gai; phiến lá thường rất lớn, xẻ thùy chân vịt (hình quạt) hay xẻ thùy lông chim. Cụm hoa dạng bông mo, lúc non nằm trong 1 tổng bao lớn (trong lá mo). Quả hạch.

Có 240 chi 3400 loài, ở nhiệt đới và cận nhiệt đới, nhiều nhất ở Đông Nam Á. Ở Việt Nam có khoảng 35-40 chi: Areca, Arenga. . . Wallichia, Zalaccella ; chừng 90 loài.

Cà phê Rubiaceae
 

Gồm những loài rất phong phú về dạng sống (có đủ các loại từ cây gỗ lớn, cây bụi, dây leo, cây phụ sinh đến các loại cỏ) và cấu tạo của cơ quan sinh sản. Khá gần với Mã tiền Loganiaceae, nhưng ở đây có bầu hạ. Rất đặc trưng bởi tổ hợp các đặc điểm: lá đơn mọc đối, có lá kèm, cánh hoa hợp và bầu hạ (đối-kèm-hợp-hạ).

Có 450 chi 7000 loài, chủ yếu ở nhiệt đới và cận nhiệt đới, ít ở ôn đới. Ở Việt Nam có trên 90 chi: Adina, Aidia, Anotis, Anthocephalus, Aphaenandra . . . và khoảng 430 loài.

Cáng lò Betulaceae
 

Cây gỗ hoặc bụi, có chồi mang vẩy. Lá đơn, mọc cách, có lá kèm sớm rụng. Hoa đơn tính, không có cánh hoa, cụm hoa đực dạng đuôi sóc, treo; cụm hoa cái hình đầu, dạng “nón thông” (khác Fabaceae). Nhị thường 2- 14, nhưng đôi khi chỉ có 1. Rất đặc trưng bởi bộ nhụy gồm 2 lá noãn hợp syncarp (hợp nguyên lá noãn) thành bầu hạ 2 ô ở nửa dưới, còn nửa trên chỉ có 1 ô. Quả hạch khô, thường có 2 cánh màng (khác Fagaceae).

Có 6 chi 130 loài, chủ yếu ở bán cầu Bắc, một số loài gặp ở Đông nam Á. Ở Việt Nam có 3-5 chi: Alnus. Betula, Calpinus, Colylus, Ostryopsis , khoảng 5-6 loài.

Chè Theaceae
 

Gỗ hoặc bụi. Lá đơn, mọc cách, không có lá kèm. Hoa phần lớn mọc đơn độc, thường lưỡng tính và mẫu 5; bao hoa xếp xoắn hay xếp vòng. Nhị thường nhiều, chỉ nhị rời nhau hoác hơi hợp thành ống. Bộ nhụy thường gồm (2)3-5(10) lá noãn hợp thành bầu thượng (hiếm khi là bầu trung), 2- 10 ô; mỗi ô thường chứa nhiều noãn trên giá noãn trụ giữa. Quả nang thường chẻ ô (loculicide), hoặc quả khô không mở, có khi là quả hạch hay quả dạng mọng; ở các dạng quả mở thường để lại cột giữa. Hạt có phôi thẳng hay hơi cong, đôi khi hạt có cánh.

Có 29 chi 550 loài, chủ yếu ở nhiệt đới và cận nhiệt đới của 2 bán cầu, những đại diện cổ sơ nhất tập trung ở châu Á, nhất là Trung Quốc và Đông Dương. Ở Việt Nam có 11 chi: Adinandra. Anneslea. Camellia. . . hơn 100 loài.

Chẹo thui Proteaceae
 

Cây gỗ hoặc bụi. Lá đơn, thường mọc cách, không có lá kèm. Hoa phần lớn lưỡng tính, đều hay hơi không đều, mẫu 4, không có cánh hoa; đài dạng cánh hoa; nhị 4, đối diện với các thùy dài. Quả đại, quả hạch hay hạch khô, đôi khi quả có cánh.

Có 60 chi 1400 loài, ở nhiệt đới và cận nhiệt đới của hầu hết các châu lục, nhất là ở Nam Phi và Australia. Ở Việt Nam có 3 chi: Grevillea, Helicia, Heliciopsis ; khoảng 15 loài.

Chò nước Platanaceae
 

Rất gần với Altingiaceae (gỗ lớn, lá mọc cách, xè thùy chân vịt và có gân chân vịt; hoa nhỏ, đều, đơn tính, họp thành đầu dầy đặc...), nhưng ở đây có bao hoa (thường mẫu 3-4) rất thoái hóa, nhị xen kẽ với cánh hoa; bộ nhụy gồm 5-8 (đôi khi 3-4 hoặc 9) lá noãn rời. Rất đặc trưng bởi lá noãn chưa hoàn toàn đóng kín: ở dỉnh bầu hơi hở, núm nhụy men dọc theo vòi đến tận đỉnh bầu. Noãn trong mỗi lá noãn.

Có 1 chi 6-7 loài: Platanus, ở châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ. Ở Việt Nam có 1 loài ( Platanus kerrii ).

Chùm ngây Moringaceae
 

Khá gần với Capparaceae (cũng có gynophora, quả nang kéo dài thành dạng quả giác), nhưng ở đây là gỗ, lá kép 2-3 lần lông chim, hoa mẫu 5 (K5C5A5), nhị không đều nhau, xen lẫn với vòng nhị lép ngoài gồm 3-5 chiếc xếp quanh mép của triền, bao phấn 1 ô, hạt có phôi thẳng.

Có 1 chi 10 loài: Moringa, mọc hoang ở nhiệt đới châu Phi đến Ấn Độ. Ở Việt Nam có nhập 1 loài (Moringa oleifera) vào trồng.

 
Tra cứu họ thực vật:
 
 


Giới thiệu | Tra cứu | Danh pháp | Diễn đàn | Liên hệ | Văn Bản | Trợ giúp | SVR Mobile

Mọi chi tiết xin liên hệ Admin website Sinh vật rừng Việt Nam
© Ghi rõ nguồn '
Sinh vật rừng Việt Nam' khi bạn phát hành lại thông tin từ Website này